Phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên giúp chúng ta cảm nhận được tấm lòng, tâm tư tình cảm của một tâm hồn nghệ sĩ giàu tình yêu quê hương đát nước. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn tự ôn tập kiến thức môn văn, đạt kết quả tốt nhất trong kì thi quan trọng sắp tới.
Mục lục bài viết
- 1 1. Dàn ý phân tích Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên:
- 1.1 1.1. Ý nghĩa của lời đề từ:
- 1.2 1.2. Hai khổ thơ đầu là lời giục giã với những câu hỏi ngày càng thôi thúc:
- 1.3 1.3. Chín khổ thơ tiếp theo là một mạch ngầm của niềm hạnh phúc và khao khát về với nhân dân, gợi lại những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình trong những năm kháng chiến:
- 1.4 1.4. Bốn khổ thơ cuối là khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê:
- 2 2. Phân tích Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên hay nhất:
- 3 3. Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên:
1. Dàn ý phân tích Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên:
1.1. Ý nghĩa của lời đề từ:
Chỉ trong lời đề từ, tác giả đã bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc của mình về chủ đề, tình cảm của bài thơ. Câu hỏi tu từ: “Tây Bắc ư? Có gì riêng Tây Bắc?…” là lời tự vấn hàm chứa một nỗi băn khoăn, trăn trở rất thực cho tâm trạng của thi nhân nói riêng và tầng lớp văn nghệ sĩ nói chung vào thời khắc lịch sử này.
1.2. Hai khổ thơ đầu là lời giục giã với những câu hỏi ngày càng thôi thúc:
‐ Dường như hình ảnh con tàu là một hình ảnh mang tính ẩn dụ nghệ thuật tượng trưng cho ước mơ, khát vọng vượt ra khỏi cuộc đời chật hẹp của nhân vật trữ tình để đến với cuộc đời rộng lớn. Nhà thơ đã khéo léo so sánh tâm hồn mình với con tàu mở hết tốc lực về với nhân dân và đất nước.
‐ Tây Bắc – tên riêng chỉ một địa danh của một vùng quê xa Tổ quốc, nhưng cũng là biểu tượng cho cuộc sống vĩ đại của nhân dân và đất nước.
‐ Tây Bắc là cội nguồn của hồn thơ và cảm hứng nghệ thuật. Bởi vậy, ước muốn về với Tây Bắc cũng là để trở về với chính lòng mình, với những tình cảm trong sáng và tình yêu đất trời sâu nặng.
1.3. Chín khổ thơ tiếp theo là một mạch ngầm của niềm hạnh phúc và khao khát về với nhân dân, gợi lại những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình trong những năm kháng chiến:
Cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc đã thay đổi.
– Đến với Tây Bắc là hành trình về với mảnh đất thân yêu của tâm hồn ta, là hành trình về với Mẹ nhân dân – Tổ quốc yêu dấu.
‐ Tác giả nhắc lại kí ức về các dân tộc thiểu số Tây Bắc bằng hình ảnh con người (anh du kích, mẹ tóc bạc, anh liên lạc…).
‐ Sự quan tâm đùm bọc, yêu thương chân thành của những con người Tây Bắc thân thiện đã tiếp thêm sức mạnh mạnh mẽ cho nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và để lại những kỉ niệm sâu sắc khó phai.
‐ Niềm khao khát mãnh liệt và niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ được trở về với nhân dân được thể hiện một cách rõ nét.
‐ Từ những kỉ niệm êm đềm của cư dân vùng cao nguyên Tây Bắc, nhà văn đã chuyển hoá chúng thành những suy tư mang tính khái quát và những chân lí rút ra từ những trải nghiệm của bản thân.
‐ Khi nói về tình yêu, người viết có xu hướng lí giải để cắt nghĩa trọn vẹn ý thơ. Chế Lan Viên nói rất hay về điều kì diệu của tình yêu. Đây là tình yêu đã làm cho những đất nước xa xôi trở nên gần gũi, như quê hương, máu thịt của tâm hồn.
– Khi nói đến tình yêu và nỗi nhớ, Chế Lan Viên không ngần ngại miêu tả một cách hóm hỉnh, sâu sắc về mối quan hệ thân thiết, sự gắn bó khăng khít giữa những người bạn với nhau bằng những hình ảnh đầy màu sắc trang nhã.
– Bằng nghệ thuật độc đáo và giàu sáng tạo, nhà thơ đã khắc hoạ về con người, tình yêu con người và yêu cuộc sống. Ẩn dụ nghệ thuật có một số ý nghĩa. Nhịp thơ thay đổi linh hoạt, vừa sôi nổi, vừa sâu lắng.
1.4. Bốn khổ thơ cuối là khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê:
‐ Tiếng gọi của đất, người, đời trở thành khát vọng mãnh liệt, khát vọng của lòng mình, khát vọng cháy bỏng.
‐ Lời tự động viên, khích lệ và khẳng định lên đường quyết tâm lên đường.
‐ Nhà thơ mượn những hình ảnh tượng trưng trong ca dao cổ để nói lên vẻ đẹp cao cả của tâm hồn.
‐ Ở những câu thơ cuối, tác giả đưa ra những bài học triết lí sống và quan điểm nghệ thuật: Hiện thực cuộc sống là nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận. Văn học không thể tách rời hiện thực. Hiện thực là cơ sở của cảm hứng trữ tình cách mạng…
2. Phân tích Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên hay nhất:
Không biết trong đời Chế Lan Viên có bao nhiêu “thơ nước mắt”, nhưng có nhiều bài thơ đẹp như “cánh hoa…”. Tiếng hát con tàu” là một bài thơ như thế! Tác phẩm được sáng tác năm 1960, “Là một bông hoa trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa” của Chế Lan Viên. Trong thơ ca nói chung… đã xuất hiện một thể thơ mới, một giọng điệu mới, một cách nghĩ mới, một cảm nhận mới.” (Người Làm Vườn Vĩnh Cửu) – Trần Mạnh Hảo).
Năm 1960, miền Bắc nước ta bắt đầu kế hoạch 5 năm đầu tiên để xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa. Phong trào xây dựng kinh tế ở miền núi đã trở thành một phong trào cách mạng to lớn làm “Tây Bắc thành hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc” (Phạm Văn Đồng). Bài thơ “Tiếng hát con tàu” đã làm cho tâm hồn thời đại bay cao” (Tố Hữu), nó đã vượt ra ngoài hiện thực để trở thành một bài ca thể hiện một cách nồng nàn khát vọng lên đường cứu nước và niềm sống với tình yêu Tổ quốc. Chất suy tưởng phong phú, vẻ đẹp trí tuệ, lập luận sắc bén, hình ảnh mới lạ, độc đáo… được cô đọng, kết tinh để tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực của một bài thơ kiệt tác.
Trước tiên hãy nói về một câu thơ đề từ rất độc đáo và tài hoa. Cấu tứ của bài thơ theo hình thức vấn đáp. Không chỉ hỏi, mà còn trả lời các câu hỏi với giọng điệu ngân vang, say mê, hào hứng:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu,
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”.
Bao trùm lên đoạn thơ là niềm tự hào về tình yêu lớn lao của tác giả. Một câu hỏi và câu trả lời được sử dụng để củng cố nhận thức tâm hồn của chính nhà thơ. Câu thứ nhất nói lên một tình cảm rộng lớn đẹp đẽ: không chỉ yêu Tây Bắc mà nhà thơ bằng tất cả tình yêu nồng nàn đã hướng tâm hồn mình đến khắp mọi miền đất rộng. Câu thứ hai và câu thứ ba chỉ rõ cội nguồn của tình cảm cao cả này. Điều kiện chủ quan là “Khi lòng ta đã hóa những con tàu”, bản thân “ta” đã sống với khát vọng cao đẹp là được đi khắp nơi để cống hiến, phụng sự cho Tổ quốc thân yêu. “Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát” là điều kiện khách quan, là hiện thực xã hội, là không khí thời đại. Đó là một thời rất đẹp, rất sôi động ở miền Bắc nước ta. Nhân dân phấn khởi xây dựng đất nước, cuộc sống mới. Một nhà thơ đã khen là “thơ Bắc – rất tự do, nhạc mới, vần mới”. Câu thơ thứ tư là hệ quả tất yếu mà điều kiện chủ quan và khách quan dẫn đến “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?” Câu hỏi tu từ vang lên đầy tự hào cho thấy tâm hồn tác giả đã hòa nhập, gắn bó và yêu say đắm Tây Bắc. Câu thơ không chỉ thể hiện tình yêu miền Bắc, yêu quê hương đất nước mà còn thể hiện lập luận sắc bén – nét đẹp trong thơ Chế Lan Viên.
“Anh đi chăng?” hay “anh giữ trời Hà Nội?”; “Anh có nghe…?” và “Tàu gọi anh đi, sao anh chửa ra đi?” Dường như nhà thơ có tâm trạng, băn khoăn về việc ra đi hay ở lại? Sợ đi xa, sợ vướng bận là sự thật của lòng người. Sự đấu tranh tư tưởng diễn ra trong mỗi con người, đó là một thực tế. Chế Lan Viên đã sử dụng biện pháp tương phản để nhấn mạnh tâm trạng băn khoăn, trăn trở này. Hàng loạt câu hỏi tu từ xuất hiện với giọng thơ ám ảnh, gượng ép:
“Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
… Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
…Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi!”
Câu hỏi Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?”, “Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi/Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng”, “Tàu gọi anh đi, sao chưa ra đi?” được sắp xếp theo mức độ tăng dần, đòi hỏi nghệ sĩ phải đưa ra một quyết định nhanh chóng và dứt khoát giữa Hà Nội và Tây Bắc.
Chín khổ thơ tiếp theo chứa đựng những suy nghĩ tình cảm đẹp đẽ khi nhà thơ nghĩ về những kỉ niệm sâu sắc, xúc động về Tây Bắc và con người nơi đây. Lời dạy về lòng trung thành với đất nước và nhân dân khiến tác giả trưởng thành về tinh thần và ghi nhớ mãi.
Ngọn lửa kháng chiến diệu kì, những bản làng, những hẻm vực, con suối, những anh du kích, những em liên lạc, những người mẹ, người con gái Tây Bắc “vắt xôi nuôi quân” được nhớ đến đầy yêu thương, trân trọng đã làm thay đổi tâm hồn người cán bộ kháng chiến, nhà thơ Chế Lan Viên.
Tây Bắc là hồn thiêng sông núi, nơi bùng cháy ngọn lửa kháng chiến, ngọn lửa Điện Biên thần kỳ, là “đất thiêng của rừng, “núi anh hùng”, là mảnh đất nghĩa tình “nơi dòng máu hồn ta chảy khắp đất – nay đơm hoa kết trái chín đầu xuân”, tự hào hướng về tương lai với bao niềm tin tươi sáng:
“Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường”.
Nhận thức này đã soi sáng tâm hồn khiến con người ý thức được con đường gian nan phía trước. Ý thức được “con cần vượt nữa” để “về gặp lại Mẹ yêu thương”. “Mẹ” được viết hoa là một từ đẹp, một hình ảnh đẹp của quê hương yêu dấu. Khả năng sử dụng ngôn ngữ chính xác, giàu sức biểu cảm, sáng tạo hình ảnh đã tạo nên sức lay động cho bài thơ “Tiếng hát con tàu”. Những hình ảnh về thời gian: “mười năm qua”, “nghìn năm sau” là một biểu hiện triết lí phản ánh lịch sử sâu sắc, xúc động.
Đối với Chế Lan Viên, gặp gỡ mọi người là niềm vui lớn, niềm khát khao lớn, niềm hạnh phúc lớn:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ,
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”.
Cách nói này vừa quen vừa lạ. Năm hình ảnh so sánh nối tiếp nhau như cụ thể hóa, hình tượng hóa niềm vui, niềm hạnh phúc lớn lao. Có hình ảnh thiên nhiên, có hình ảnh cuộc sống, tuổi thơ. Con người là cội nguồn của sự sống và hạnh phúc, là hơi ấm của mùa xuân đón những chú nai đói trở về với tình xưa, hơi ấm của mùa xuân đem lại mật ngọt cho cỏ xanh, là ánh chiều tà cho chim muông. Đàn én ở bên nhau, dòng sữa ngọt ngào cho em bé đói, đôi tay nhẹ đưa em vào giấc ngủ say, giấc mơ đẹp cho em thơ… Có những hình ảnh đầy chất thơ và ấm áp nghĩa tình sâu nặng như vậy. Những so sánh này còn có ý nghĩa thẩm mỹ sâu sắc: về với con người là về với cội nguồn hạnh phúc, là lẽ đạo lý, lẽ tự nhiên. Triết lý ấy càng sâu sắc hơn khi được thể hiện bằng ngôn ngữ chọn lọc, tượng trưng, gợi cảm và giàu chất thơ.
3. Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên:
Chế Lan Viên là nhà thơ đương đại của văn học Việt Nam. Con đường sáng tác của nhà thơ trải qua nhiều thăng trầm, khúc ngoặt theo phong cách và tư tưởng nghệ thuật chủ đạo. Không còn là thế giới kinh dị và bí ẩn của “Điêu tàn” sau năm 1945, ông tập trung vào đề tài con người và đất nước trong kháng chiến. Thơ Chế Lan Viên đầy vẻ đẹp trí tuệ và giàu suy ngẫm triết lí với hình tượng thơ linh hoạt, phong phú, sáng tạo.
“Tiếng hát con tàu” trích từ tác phẩm “Ánh sáng và phù sa”, bài thơ lấy cảm hứng từ một sự kiện kinh tế, chính trị có tầm quan trọng lớn: phong trào xây dựng nền kinh tế ở vùng núi Tây Bắc của đồng bào miền xuôi. Bài thơ là sự kết tinh tuyệt vời về tư tưởng và nghệ thuật của Chế Lan Viên trong sự nghiệp thơ ca cách mạng của ông.
Những câu thơ hay là một tiếng kêu, lay động trái tim người đọc, nó thể hiện tư tưởng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”
Một câu hỏi tu từ khẽ vang lên: “Tây Bắc ư?” chứa đựng những trăn trở, khắc khoải của nhà thơ về tình trạng đất nước bị lâm nguy. Tiếng gọi của Tổ quốc văng vẳng bên tai, tâm hồn Chế Lan Viên giờ đây chỉ còn là Tây Bắc xa xôi, ông không còn sợ khó khăn, hiểm nguy rình rập, bởi trái tim ông đã đồng điệu với Tổ quốc, vì trái tim ông “hóa những con tàu”.
Hai khổ thơ đầu vang lên những lời động viên, khẩn thiết, những lời nghiêm túc và những câu hỏi ngày càng cấp thiết xoáy sâu vào tâm khảm của người viết và của giới văn nghệ sĩ nói chung.
“Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”
Hình ảnh ẩn dụ “con tàu” tượng trưng cho những khát vọng và mục tiêu lớn lao đã chảy vào trái tim của hàng triệu người Việt Nam lúc bấy giờ. Tiếng tàu cất lên như tiếng gọi mạnh mẽ, thiết tha của Chế Lan Viên. Phép tu từ nhân hóa của “Tàu đói những vành trăng”, “vầng trăng” là hình ảnh thiên nhiên nên thơ, trữ tình, cũng là biểu tượng của ánh sáng, niềm tin và hy vọng trong chiến thắng tương lai không xa. Động từ “đói” khiến người đọc phải suy nghĩ rất nhiều, đất nước rất cần sự hiểu biết, đoàn kết giữa con người với nhau, cống hiến và sẵn sàng hy sinh để xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh. Tây Bắc – nơi đặc biệt xa xôi, hiểm trở còn là hình ảnh tượng trưng của đất nước, Tây Bắc là linh hồn của bài thơ và là nguồn sáng tạo nghệ thuật dồi dào. “Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp”, nghệ thuật tương phản gây nên sự trăn trở, day dứt trong lòng mỗi người đọc. Chúng ta sống dưới sự che chở của thiên nhiên, dưới sự che chở của Tổ quốc, nhưng đôi khi chúng ta ngỡ ngàng nhìn lại mình đã làm được gì cho đất nước hay đơn giản là sống một cuộc đời tầm thường “đóng cửa trong lòng” với thế giới bên ngoài.
Ở chín khổ thơ sau, nhà thơ đã tái hiện một cách chân thực niềm hạnh phúc tràn trề, niềm vui được trở về quê hương, gợi nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ, vững bền của thời kháng chiến:
“Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân
… Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương”
Cảnh người nay đã đổi thay, mười năm kháng chiến đi qua “như ngọn lửa” vẫn cháy mãi trong lòng tác giả. Có lẽ chính lúc này tâm hồn cần được nghỉ ngơi, cần sự vỗ về của một bàn tay gia đình để xoa dịu đi nỗi đau chất chứa trong lòng bao năm “Cho con về gặp Mẹ thương”. “Mẹ” không chỉ là người mang nặng đẻ đau mà còn là mẹ thiên nhiên, mẹ của quê hương yêu dấu. Trong tâm trí người viết vẫn còn biết bao kỉ niệm về miền Tây Bắc, hình ảnh người “anh du kích”, “anh liên lạc”, người mẹ tóc hoa râm nhớ “bản sương”, nhớ “đèo mây phủ”. Những hình ảnh rất đặc sắc, đầy liên tưởng sâu sắc ấy đã gợi nhớ đến tình yêu thương sâu nặng của quân dân nơi đây, sự đùm bọc, che chở muốn tiếp thêm sức mạnh cho các chiến sĩ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên không phải là tình yêu lứa đôi mà xen lẫn tình yêu quê hương đất nước. Tình yêu giữa anh và em nồng nàn, cháy bỏng như chứng nhân cho núi rừng Tây Bắc, cứ nắm tay nhau đi trong biết bao mùa chiến dịch. Và tình yêu quê đã làm cho xứ lạ trở nên thân thuộc, gần gũi như quê hương ruột thịt. Với ngòi bút tài hoa đầy lãng mạn nghệ sĩ, Chế Lan Viên đã không ngần ngại thể hiện tình yêu qua những hình ảnh đầy màu sắc hóm hỉnh sâu sắc, gần gũi nhưng cũng rất thủy chung, đầy dư vị của núi rừng Tây Bắc.