Điểm chung của các nước giải quyết khủng hoảng bằng con đường phát xít hóa bộ máy nhà nước là có ít hoặc không có thuộc địa, thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và thị trường. Sau đây là bài viết về điểm chung của nhóm nước giải quyết khủng hoảng bằng phát xít hóa bộ máy nhà nước, mời các bạn cùng tham khảo!
Mục lục bài viết
1. Điểm chung của nhóm nước giải quyết khủng hoảng bằng phát xít hóa bộ máy nhà nước là gì:
A. Có hệ thống thuộc địa rộng lớn, nhiều nguồn tài nguyên
B. Có thị trường rộng lớn, nhiều vốn đầu tư
C. Có ít hoặc không có thuộc địa, thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và thị trường
D. Có mối quan hệ ngoại giao mật thiết với Anh, Pháp
Đáp án cần chọn là: C
Điểm chung của các nước giải quyết khủng hoảng bằng con đường phát xít hóa bộ máy nhà nước là có ít hoặc không có thuộc địa, thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và thị trường. Do đó các nước này đều muốn phá bỏ trật tự thế giới theo hệ thống Véc-xai – Oasinhtơn để thiết lập một trật tự thế giới mới có lợi cho mình.
2. Đức phát xít hóa nền kinh tế 1933 – 1939:
Chính sách giải quyết thất nghiệp mang tính cưỡng ép
Tình trạng thất nghiệp đầu những năm 1930 là một trong những thách thức lớn nhất đối với kinh tế Đức. Năm 1929, Đức có 1,9 triệu người thất nghiệp, năm 1932 đạt đỉnh điểm là 5,6 triệu. Theo Hitler, cốt lõi của “phép màu kinh tế Đức” là các chương trình tạo việc làm và tái vũ trang. Chính phủ quốc xã đề ra nhiều giải pháp nhằm giảm thất nghiệp, nhưng đều mang tính chất cưỡng ép, tiêu cực để có nguồn lao động giá rẻ, dồi dào trong các ngành liên quan đến chuẩn bị chiến tranh.
Năm 1933, Hitler thành lập tổ chức Dịch vụ Lao động Quốc gia. RAD đã quy định các nam thanh niên trong độ tuổi 18-25 phải tham gia sửa chữa hệ thống giao thông, cải tạo đất nông nghiệp và trồng cây. Họ phải lao động “tự nguyện” trong 2 năm và sống trong các doanh trại theo chế độ quân sự hóa. RAD đã góp phần giảm thiểu tình trạng thất nghiệp, cung cấp số lượng nhân lực giá rẻ phục vụ trong quân đội, từng bước giúp Đức tái vũ trang. Tuy nhiên, họ được nhận mức lương thấp, làm việc nhiều giờ với cường độ cao trong điều kiện tồi tàn.
Chính quyền cho thực hiện các dự án quốc gia trong xây dựng công cộng (đường giao thông, trường học, bệnh viện). Đến năm 1935, có hơn 125.000 nam giới tham gia xây dựng đường cao tốc và đến năm 1938, khoảng 3.500 km đường đã được hoàn thiện.
Chính sách tư nhân hóa – cấu kết giữa Đảng quốc xã với nhóm tư bản thân hữu
Về mặt hình thức, Đức chuyển quyền sở hữu nhà nước ở nhiều công ty, doanh nghiệp sang khu vực tư nhân. Nhưng thực chất quyền kiểm soát của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế được đảm bảo thông qua các quy định khác nhau. Các chủ tư nhân được quyền kiểm soát người lao động, chế độ việc làm và lương bổng. Chính phủ nhận được đóng góp từ 17 nhóm doanh nghiệp khác nhau. Nhiều doanh nghiệp tiếp tục hỗ trợ chính quyền Hitler trong thời kì chiến tranh và thu lợi từ việc đàn áp người Do Thái. Đó là biểu hiện rõ nét của việc câu kết giữa chính quyền và các tập đoàn lớn để bóc lột người dân.
Các công ty được chuyển giao thuộc nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau như thép, khai mỏ, ngân hàng, nhà máy đóng tàu, đường tàu, đường sắt. Đảng Quốc xã lập ra một loạt tổ chức để thâu tóm những lợi ích mà trước đây thuộc người dân. Mặt trận Lao động Đức để giám sát việc đào tạo nghề hay kiểm tra tình trạng các nhà máy, điều kiện làm việc. Trước năm 1933, phúc lợi xã hội thuộc chính quyền địa phương, nhưng sau được chuyển giao một phần cho Tổ chức phúc lợi nhân dân xã hội chủ nghĩa quốc gia. Kinh phí của NSV lấy từ thu nhập của người lao động có việc làm và các khoản thu gần như bắt buộc từ nông dân, người sử dụng lao động và tầng lớp trung lưu.
Như vậy, chương trình tư nhân hóa của chính phủ Hitler thực chất là chuyển giao quyền lực và lợi ích của nhà nước, người dân sang các tổ chức của Đảng Quốc xã, làm lợi cho một nhóm tư bản phản động hiếu chiến.
Kế hoạch 4 năm (1936 – 1940) quân sự hóa nền kinh tế
Kế hoạch 4 năm ra đời khi Đức gặp khủng hoảng nông nghiệp, thiếu nguồn dự trữ nguyên nhiên liệu cần thiết để tái vũ trang và chuẩn bị chiến tranh. Đức cố gắng khắc phục bằng cách khai thác quặng sắt cấp thấp và thay thế dầu công nghiệp bằng các nhiên liệu tổng hợp nhưng không hiệu quả. Đức theo đuổi chính sách phát triển công nghiệp quân sự và không tập trung sản xuất hàng tiêu dùng, nên dẫn tới thiếu hụt nguồn cung cấp lương thực, dẫn tới nguy cơ lạm phát và buộc phải có một kế hoạch để điều chỉnh.
Kế hoạch 4 năm được chia làm ba giai đoạn khác nhau. Giai đoạn đầu từ mùa thu năm 1936 đến mùa hè năm 1938, chủ yếu tập trung vào việc mở rộng cơ sở nguyên liệu thô, cải tiến kỹ thuật và cải cách nông nghiệp. Giai đoạn hai từ hè 1938 đến tháng 8-1939 và tập trung các sản phẩm của ngành công nghiệp hóa chất và kim loại nhẹ, vật liệu trang bị vũ khí.
Kết quả phát xít hóa nền kinh tế Đức qua các chính sách trên
Chính sách “tư nhân hóa” của Đức quốc xã đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế nói chung và hoạt động tái vũ trang của Đức nói riêng. Chính sách này đã củng cố hơn nữa mối quan hệ giữa chính phủ và các doanh nghiệp, giúp huy động thêm ngân sách, giảm chi tiêu của chính phủ để tập trung quân sự hóa. Tư nhân hóa cũng đem lại lợi ích cho nhóm tư bản đầu sỏ hỗ trợ những mục tiêu của Đức quốc xã. Nó đảm bảo vị thế kinh tế của chủ tư bản với mục đích nhằm vận động sự ủng hộ chính trị từ giới này cho sự cai trị và tồn tại của chính quyền quốc xã.
Quá trình phát xít hóa nền kinh tế mà Hitler và Đức quốc xã thực hiện trong giai đoạn 1933-1939 phản ánh sự thay đổi từng bước mục tiêu chiến lược về kinh tế, chính trị, đối ngoại của Hitler. Trong giai đoạn đầu, khi mà tỉ lệ thất nghiệp, lạm phát tăng cao, Đức tập trung vào giải quyết việc làm, cung cấp “bánh mỳ” cho người dân dù điều kiện làm việc không được cải thiện để tạo ra cơ sở ủng hộ đối với chính phủ mới. Sang giai đoạn sau, khi Đức tổng động viên quân đội và tái vũ trang năm 1935 thì các chính sách hướng đến quân sự hóa.
Kế hoạch 4 năm được thực hiện để phục vụ tái vũ trang dưới sự lãnh đạo của tướng Hermann Göring. Chỉ trong vòng 7 năm ngắn ngủi, Đức đã có sự chuyển đổi khá nhanh chóng các chiến lược, chính sách. Nhưng cũng phải thấy rằng dù ban đầu chính sách kinh tế thiên về tạo việc làm, nhưng các ngành như xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp ô tô, hóa chất, luyện kim vẫn luôn được coi trọng vì đó là những ngành có thể dễ dàng chuyển sang mục tiêu quân sự.
Với chính sách phát xít hóa, kinh tế Đức tồn tại nhiều hạn chế, mâu thuẫn. Nền kinh tế phục hồi trong thời gian tương đối ngắn, và chưa thực sự có thể giúp Đức tự đứng vững trước những thách thức lớn. Sự khôi phục tưởng chừng là “phép màu”, nhưng lại hàm chứa nhiều yếu tố giả tạo, tiêu cực khi đời sống người dân bị bót nghẹt trong chế độ quân sự hóa. Việc Đức tiến hành chiến tranh xâm lược các nước Đông Âu và Liên Xô là một bước tiếp theo của quá trình phát xít hóa kinh tế.
3. Câu hỏi trắc nghiệm kèm đáp án:
Câu 1. Hãy sắp xếp các sự kiện sau theo trình tự thời gian:
1. Hítle được chỉ định làm Thủ tướng nước Đức.
2. Nước Đức tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên.
3. Hítle tuyên bố hủy bỏ Hiến pháp Vaima.
A. 3, 2, 1. B. 3, 1, 2.
C. 1, 2, 3. D. 2, 1, 3.
Đáp án: C
1. Hítle được chỉ định làm Thủ tướng nước Đức vào tháng 1/1933.
2. Nước Đức tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên vào tháng 10/1933.
3. Hítle tuyên bố hủy bỏ Hiến pháp Vaima vào năm 1934.
Thứ tự là 1, 2, 3.
Câu 2. Sự kiện mở ra một thời kì đen tối trong lịch sử nước Đức là
A. Đảng Quốc xã được thành lập.
B. Hít-le được chỉ định làm Thủ tướng nước Đức.
C. Hin-đen-bua làm Tổng thống nước Đức.
D. Hiến pháp Vaima bị xóa bỏ.
Đáp án: B
Câu 3. Từ năm 1933, Chính phủ Hít-le ráo riết thiết lập ở Đức một nền chuyên chính
A. dân chủ.
B. phong kiến.
C. độc tài.
D. vô sản.
Đáp án: C
Câu 4. Để củng cố nền chuyên chính độc tài, từ năm 1933, Chính phủ Hít-le đã thực hiện chính sách nào?
A. Lôi kéo Đảng Xã hội dân chủ và Đảng Cộng sản đứng về phía mình.
B. Áp đặt và hạn chế các quyền tự do dân chủ tối thiểu của mọi công dân.
C. Công khai khủng bố các đảng phái dân chủ tiến bộ, trước hết là Đảng Cộng sản Đức.
D. Đẩy mạnh đàn áp các cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân phản đối chế độ độc tài.
Đáp án: C
Câu 5. Sự kiện lịch sử nào sau đây không diễn ra vào năm 1934 ở Đức?
A. Tổng thống Hin-đen-bua qua đời.
B. Hít-le tự xưng là Quốc trưởng suốt đời.
C. Nền Cộng hòa Vaima hoàn toàn sụp đổ.
D. Hít-le thành lập Tổng hội đồng kinh tế.
Đáp án: D
Câu 6. Sự kiện lịch sử nào sau đây đã diễn ra ở Đức vào tháng 10 – 1933?
A. Hít-le ban hành lệnh tổng động viên.
B. Hít-le tuyên bố hủy bỏ Hiến pháp Vaima.
C. Hít-le thành lập Tổng hội đồng kinh tế.
D. Nước Đức tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên.
Đáp án: D
Câu 7. Tháng 10/1933, Đức tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên để
A. tự do phát triển kinh tế.
B. tự do chuẩn bị cho chiến tranh.
C. tự do trong hoạt động đối ngoại.
D. cải cách đất nước.
Câu 8. Để tăng cường các hoạt động chuẩn bị chiến tranh, Hít-le đã
A. tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên.
B. tuyên bố rút khỏi Liên hợp quốc.
C. tuyên bố thành lập đội quân dự bị.
D. tuyên chiến với các nước láng giềng.
Đáp án: A
Câu 9. Đỉnh cao của cao trào cách mạng 1918 – 1923 ở Đức là
A. cuộc khởi nghĩa của công nhân thành phố Muy-ních.
B. sự ra đời của nước Cộng hòa Xô viết Ba-vi-e.
C. cuộc khởi nghĩa vũ trang của Hăm-buốc.
D. nền Cộng hòa Vaima được thành lập.
Đáp án: B
Câu 10. Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933, giới cầm quyền Đức đã
A. thực hiện các chính sách cải cách về kinh tế – xã hội.
B. tập trung sản xuất, thâu tóm các ngành kinh tế chính.
C. thành lập mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa phát xít.
D. phát xít hoá bộ máy nhà nước, thiết lập chế độ độc tài.
Đáp án: D
THAM KHẢO THÊM: