Nhật Bản đứng hàng thứ tư thế giới về thương mại (sau Hoa Kì, CHLB Đức và Trung Quốc). Đối tác của Nhật Bản gồm cả các nước phát triển và các nước đang phát triển ở khắp châu lục. Sau đây là bài viết về nền kinh tế thương mại của Nhật Bản, mời các bạn cùng tham khảo!
Mục lục bài viết
1. Về thương mại, Nhật Bản đứng hàng thứ mấy thế giới:
Về thương mại, Nhật Bản đứng hàng thứ mấy thế giới:
A. Thứ hai thế giới.
B. Thứ ba thế giới
C. Thứ tư thế giới.
D. Thứ năm thế giới
Đáp án C
Nhật Bản đứng hàng thứ tư thế giới thương mại (sau Hoa Kì, CHLB Đức và Trung Quốc).
Dịch vụ là khu vực kinh tế quan trọng, chiếm 68% giá trị GDP (năm 2004). Trong dịch vụ, thương mại và tài chính là hai ngành có vai trò hết sức to lớn. Nhật Bản đứng hàng thứ tư thế giới về thương mại (sau Hoa Kì, CHLB Đức và Trung Quốc). Bạn hàng của Nhật Bản gồm cả các nước phát triển và đang phát triển ở khắp các châu lục. Trong đó, quan trọng nhất là Hoa Kì, Trung Quốc, EU, cá Đông Nam Á, Ô-xtrây-li-a,…
2. Kinh tế thương mại Nhật Bản:
Kinh tế thương mại Nhật Bản là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo sức mua tương đương, ngoài ra Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ hai trong số các nước phát triển. Nhật Bản là thành viên của G7 và G20. GDP bình quân đầu người theo sức mua tương đương của quốc gia này đạt 41.637 Đô la Mỹ (2020). Do biến động của tỷ giá hối đoái mà GDP của Nhật Bản tính theo Đô la Mỹ thường xuyên bị biến động mạnh, bằng chứng là khi tính toán GDP của Nhật Bản theo Phương pháp Atlas thì GDP bình quân đạt khoản 39.048 Đô la Mỹ.
Năm 2018 Nhật Bản là nhà xuất khẩu lớn thứ tư và cũng là nhà xuất khẩu lớn thứ tư thế giới, là quốc gia xếp thứ hai về dự trữ ngoại hối với giá trị đạt khoảng 1.300 tỷ Đô la Mỹ. Nhật Bản xếp thứ 29 về chỉ số thuận lợi kinh doanh và thứ 5 chỉ số cạnh tranh toàn cầu. Ngoài ra quốc gia này còn đứng đầu về chỉ số phức tạp kinh tế và thứ ba về thị trường người tiêu dùng trên thế giới.
Quốc gia sản xuất ô tô hàng đầu thế giới
Nhật Bản là quốc gia sản xuất ô tô lớn thứ ba đồng thời là quốc gia có ngành công nghiệp sản xuất hàng điện tử lớn nhất thế giới và thường xuyên nằm trong số các quốc gia tiên tiến nhất thế giới trong việc lưu trữ các hồ sợ bằng sáng chế toàn cầu.
Ngành sản xuất của Nhật Bản ngày nay chủ yếu tập trung vào các mặt hàng với hàm lượng công nghệ và độ chính xác cao như dụng cụ quang học, xe hơi hybrid và robot. Nhật Bản thường nằm trong nhóm các quốc gia xuất siêu hàng năm và có thặng dư đầu tư quốc tế ròng đáng kể. Nhật Bản nắm giữ số tài sản với giá trị nhiều thứ ba thế giới khi đạt 15.200 tỷ Đô la Mỹ, chiếm 9% tổng tài sản toàn cầu tính đến năm 2017. Tính đến năm 2017, có 51 trong tổng số 500 công ty thuộc Fortune Global 500 có trụ sở tại Nhật Bản, con số này ít hơn so với năm 2013 với 62 công ty. Đây là quốc gia lớn thứ ba thế giới về tổng tài sản.
Nhật Bản từng là quốc gia có số tài sản và sự giàu có thứ hai thế giới chỉ sau Hoa Kỳ, tuy nhiên cho đến năm 2015 đã bị Trung Quốc vượt qua ở cả 2 chỉ tiêu kinh tế này. Nhật Bản cũng từng là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới về GDP danh nghĩa chỉ đứng sau Hoa Kỳ nhưng lại để Trung Quốc vượt qua vào năm 2010. Ngành sản xuất của Nhật Bản trước đây cũng từng xếp ở vị trí thứ hai thế giới (thậm chí từng suýt vượt qua cả Hoa Kỳ vào năm 1995), nhưng lại một lần nữa Trung Quốc nổi lên và vượt qua Nhật Bản vào năm 2007 và thậm chí là vượt qua cả Mỹ vào năm 2010.
3. Chính sách thương mại, phát triển kinh tế Nhật Bản:
Kinh tế Nhật Bản đã đạt được bước phát triển thần kỳ, trở thành một trong những quốc gia giàu có nhất thế giới mặc dù bị chiến tranh thế giới thứ II phá hủy gần như hoàn toàn. Thành công nằm ở chính sách kinh tế và thương mại cực kỳ hiệu quả của Chính phủ Nhật Bản.
Kinh tế tăng trưởng mạnh
Chính phủ Nhật Bản đặt ưu tiên hàng đầu cho việc tăng năng suất để phục vụ dân số đông, bao gồm 8 triệu quân nhân giải ngũ. Năm 1946, Chính phủ Nhật khởi động quá trình tái kiến thiết bằng việc tập trung nguồn lực có sẵn cho hai ngành công nghiệp quan trọng là than và ngành thép. Hầu như toàn bộ than được sản xuất để phục vụ cho ngành thép và ngược lại. Chu trình này được lặp lại cho đến khi hai ngành thiết yếu này phục hồi. Dưới sự điều hành trực tiếp của chính phủ trong những năm 40 và đầu những năm 50, nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu có dấu hiệu phục hồi mạnh, tiếp tục mức tăng trưởng hai con số.
Phụ thuộc chủ yếu vào thương mại quốc tế
Diện tích đất của Nhật Bản rất nhỏ (chỉ bằng khoảng 1/5 diện tích của Nga) mặc dù hai nước có dân số không chênh lệch nhiều. Nhật Bản rất nghèo tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, họ phải nhập khẩu số lượng lớn thực phẩm, năng lượng và nguyên liệu thô để phục vụ người dân; và để có nguồn ngoại tệ phụ vụ nhập khẩu, Nhật Bản phải xuất khẩu lượng lớn hàng hóa, chủ yếu là hàng chế tạo. Ngành thương mại Nhật Bản thường được gọi là “thương mại chế tạo” bởi họ sản xuất hàng hóa bằng cách chế biến nguyên liệu thô nhập khẩu. Do đó, Chính phủ Nhật Bản chú trọng mở rộng xuất khẩu. Khi ngành công nghiệp chế xuất của Nhật bản phát triển, lượng nhập khẩu năng lượng và nguyên liệu thô cũng tăng. Nhờ các chính sách thương mại, Nhật Bản trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu lớn nhất mang lại thặng dư thương mại cao.
Khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu
Việc Nhật Bản mở rộng xuất khẩu đặt ra dấu hỏi, bởi sau chiến tranh thế giới thứ II, hàng hóa nhập khẩu của Nhật Bản bị hạn chế để bảo vệ nhà sản xuất trong nước. Ngoài nông sản và các ngành dịch vụ (như ngân hàng), ngành chế tạo cũng được bảo hộ trong những năm đầu sau chiến tranh. Trong khi các hãng xe hơi của Nhật Bản hiện nay đang ngập tràn ngập các thị trường trên thế giới, thì trong những năm đầu sau chiến tranh thậm chí xe hơi nhập khẩu cũng bị hạn chế nhiều để các hãng xe hơi mạnh đa quốc gia như GM và Ford không đánh chìm các công ty yếu của Nhật như Toyota…
Để khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ Nhật Bản mở các cuộc thi xuất khẩu giữa các công ty để cạnh tranh và hợp tác. Mặc dù cạnh tranh theo kiểu thi đua khó quản lý hơn cạnh tranh trên thị trường, song nhiều loại hình thi đua đã có đóng góp quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu trong thập kỷ 50 và 60. Có 3 điều kiện tiên quyết cho thành công của cuộc thi đó là: phần thưởng, luật lệ và trọng tài. Phần thưởng phải có giá trị đủ lớn để thu hút nhiều người tham gia và ganh đua quyết liệt. Luật lệ phải rõ ràng để các “thí sinh” hiểu rõ như thế nào sẽ được phần thưởng. Trọng tài phải thực sự nghiêm khắc. Các luật lệ tập trung vào hiệu quả kinh tế, điều kiện gần như bắt buộc để xuất khẩu. Trọng tài, các quan chức chính phủ thiết kế và giám sát các cuộc thi, phải là người có thẩm quyền và công tâm.
Nền công vụ quyền lực và công bằng
Quyền lực của bộ máy hành chính Nhật Bản được tạo nên bởi hệ thống công vụ uy tín và nền giáo dục hiệu quả. Trước tiên, cấp tiểu học và trung học ở Nhật Bản được miễn học phí và mở cho tất cả mọi người, 100% người dân đều được đi học. Ở các cấp học cao hơn, các trường đại học quốc lập, bao gồm đại học Tokyo có uy tín hơn nhiều các trường tư thục nhưng học phí tại các trường này không đáng kể. Những sinh viên tốt nghiệp các trường đại học danh tiếng này sẽ trở thành các nhà lãnh đạo trong tương lai, bao gồm cả những người đứng đầu bộ máy nhà nước.
THAM KHẢO THÊM: