Những năm 70 của thế kỉ XX, cùng với Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế, tài chính thế giới. Để có được điều đó, Nhật Bản hội tụ các yếu tố con người, tầm nhìn và kinh tế chính trị. Sau đây là bài viết về mốc thời gian Nhật Bản trở thành 1 trong 3 trung tâm kinh tế lớn, mời các bạn cùng theo dõi!
Mục lục bài viết
1. Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế khi nào:
Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế của thế giới từ khi nào?
A. Những năm 60 của thế kỉ XX.
B. Những năm 70 của thế kỉ XX.
C. Những năm 80 của thế kỉ XX.
D. Những năm 90 của thế kỉ XX.
Đáp án: B
Những năm 70 của thế kỉ XX, cùng với Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế, tài chính thế giới. Để có được điều đó, Nhật Bản hội tụ các yếu tố sau:
– Con người được coi là nhân tố quan trọng nhất ở Nhật Bản. Người dân Nhật Bản cần cù, có tính kỉ luật cao trong lao động. Vai trò lãnh đạo, quản lí có hiệu quả của Nhà nước.
– Các công ti của Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lí tốt nên có tiềm lực và khả năng cạnh tranh cao. Nhật Bản biết cách áp dụng các thành tựu khoa học – kĩ thuật hiện đại để nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm.
– Chi phí cho Quốc phòng của Nhật Bản rất thấp, có điều kiện để tập trung để phát triển kinh tế. Nhật Bản đã tận dụng tốt các yếu tố bên ngoài để phát triển kinh tế.
2. Kinh tế Nhật Bản từ năm 70 trở lại đây:
Chiến tranh thế giới thứ hai bước đến giai đoạn kết thúc vào năm 1945. Nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách đặt ra trước các cường quốc Đồng minh. Đó là Nhanh chóng đánh bại hoàn toàn các nước phát xít; Tổ chức lại thế giới sau chiến tranh; Phân chia thành quả chiến thắng giữa các nước thắng trận. Như vậy, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của tình hình thế giới. Một trật tự thế giới mới được hình thành với đặc trưng lớn là chia thế giới thành hai phe – tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, do hai siêu cường Mĩ và Liên Xô đứng đầu mỗi phe. Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản trở thành 1 trong 3 trung tâm kinh tế lớn.
Kinh tế
Từ 1973, do tác động khủng hoảng năng lượng, kinh tế Nhật thường khủng hoảng và suy thoái ngắn. Từ nửa sau 1980, Nhật vươn lên trở thành siêu cường tài chính số một thế giới với dự trữ vàng và ngoại tệ gấp 3 lần Mỹ, gấp 1,5 lần CHLB Đức, trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới.
Từ đầu thập kỉ 90, Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái những vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn của thế giới (năm 2000, GNP là 4746 tỷ USD, GDP bình quân là 37408 USD). Từ năm 1993 đến năm 2000, chính quyền ở Nhật Bản thuộc về các đảng đối lập hoặc liên minh các đảng phái khác nhau, tình hình xã hội Nhật Bản có phần không ổn định.
Nhật Bản là nước phát triển cao nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa của mình, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Khoa học – kĩ thuật tiếp tục phát triển ở trình độ cao. Năm 1992, phóng 49 vệ tinh nhân tạo, hợp tác với Mỹ, Nga trong các chương trình vũ trụ quốc tế.
Đối ngoại: Thực hiện chính sách đối ngoại mới
– “Học thuyết Phu-cư-đa” (1977) và “Học thuyết Kai-phu” (1991) chủ trương tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á và tổ chức ASEAN.
– Thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam 21/9/1973. Tiếp tục liên minh chặt chẽ với Mỹ. Tháng 4-1996, Mỹ – Nhật tuyên bố kéo dài vĩnh viễn Hiệp ước an ninh Mỹ – Nhật.
– Học thuyết Miyadaoa (1-1993) và học thuyết Hasimôtô (1-1997), coi trọng quan hệ với Tây Âu, mở rộng đối ngoại trên phạm vi toàn cầu, chũ trọng phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Á.
– Từ đầu những năm 90, Nhật nỗ lực vươn lên thành một cường quốc chính trị để tương xứng với vị thế siêu cường kinh tế
Là nước bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhưng từ sau năm 1945, Nhật Bản bước vào một thời kì phát triển mới với những thay đổi căn bản về chính trị – xã hội cùng những thành tựu như một sự “thần kì” về kinh tế. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Bộ Chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh (SCAP) đã thực hiện ba cuộc cải cách lớn:
– Một là, thủ tiêu chế độ tập trung kinh tế, trước hết là giải tán các “Daibátxư” (tức là các tập đoàn, công ti tư bản lũng đoạn còn mang tính dòng tộc)
– Hai là, cải cách ruộng đất, quy định địa chủ chỉ được sở hữu không quá 3 hécta ruộng, số còn lại Chính phủ đem bán cho nông dân
– Ba là, dân chủ hoá lao động thông qua thực hiện các
Dựa vào sự nỗ lực của bản thân và viện trợ của Mĩ, đến khoảng năm 1951 Nhật Bản đã khôi phục kinh tế, đạt mức trước chiến tranh. Sau đó, từ năm 1952 đến năm 1960, kinh tế Nhật Bản có bước phát triển nhanh chóng, nhất là từ 1960 – 1973, thường được gọi là giai đoạn phát triển kinh tế thần kì. Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của Nhật Bản từ năm 1960 – 1969 là 10,8%; từ năm 1970 – 1973, tuy có giảm nhưng vẫn đạt bình quân 7,8%, cao hơn rất nhiều so với nhiều nước phát triển khác. Vì vậy, từ đầu những năm 20 trở đi, Nhật Bản đã được coi là một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn nhất thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai cùng Mĩ và Tây Âu.
3. Câu hỏi bài tập:
Câu 1. Nhận xét về chính sách đối ngoại chuyển biến theo tiềm lực kinh tế của Nhật Bản
– Giai đoạn 1 (1945 – 1952)
* Kinh tế: Nhật Bản trong thời kì khôi phục kinh tế, đến năm 1951 Nhật Bản đã đạt mức trước chiến tranh.
* Chính sách đối ngoại: Nhật Bản chủ trương liên minh chặt chẽ với Mĩ, năm 1951 Nhật kí với Mĩ Hiệp ước An ninh Mĩ – Nhật.
– Giai đoạn 2 (1952 – 1973)
* Kinh tế: có bước phát triển nhanh nhất từ năm 1960 đến năm 1973 thường được gọi là giai đoạn phát triển thần kì. Kinh tế Nhật đã vượt lên đứng thứ hai sau Mĩ trong thế giới tư bản.
* Chính sách đối ngoại: Nhật vẫn liên minh chặt chẽ với Mĩ. Hiệp ước An ninh Mĩ – Nhật được kéo dài vĩnh viễn. Tuy vậy, phong trào đấu tranh nhân dân Nhật Bản chống Hiệp ước An ninh Mĩ – Nhật, chống chiến tranh Việt Nam cũng diễn ra mạnh mẽ.
– Giai đoạn 3 (1973 – 1991)
* Kinh tế: sự phát triển kinh tế xen lẫn suy thoái. Tuy nhiên, từ nửa sau những năm 80, Nhật Bản đã vươn lên thành siêu cường tài chính số một thế giới.
* Chính sách đối ngoại: với tiềm lực kinh tế ngày càng lớn mạnh, Nhật Bản bắt đầu đưa ra chính sách đối ngoại mới (thể hiện trong học thuyết Phucưđa năm 1977 và học thuyết Kaiphu năm 1991) tăng cường mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á.
– Giai đoạn 4 (1991 – 2000)
* Kinh tế: tuy lâm vào tình trạng suy thoái, nhưng Nhật vẫn là một trong 3 trung tâm kinh tế – tài chính lớn thế giới.
* Chính sách đối ngoại: Nhật Bản tiếp tục liên minh chặt chẽ với Mĩ. Tuy nhiên, coi trọng quan hệ với Tây Âu và mở rộng hoạt động đối ngoại ra phạm vi toàn cầu.
Câu 2. Sau khi được phục hồi, từ năm 1952 đến năm 1962, kinh tế Nhật Bản có bước phát triển như thế nào
Sau khi được phục hồi, từ năm 1952 đến năm 1962, kinh tế Nhật Bản có bước phát triển nhanh, nhất là từ năm 1960 đến năm 1973, thường được gọi là giai đoạn phát triển “thần kì”.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của Nhật Bản từ năm 1960 đến năm 1969 là 10,8%; từ năm 1970 đến năm 1973, tuy có giảm đi nhưng vẫn đạt bình quân 7,8%, cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển khác. Năm 1968, kinh tế Nhật Bản đã vượt Anh, Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Italia và Canada; vươn lên đứng thứ hai trong thế giới tư sản (sau Mĩ). Từ đầu những năm 70 trở đi, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế-tài chính lớn nhất của thế giới (cùng với Mĩ và Tây Âu).
Nhật Bản rất coi trọng giáo dục và khoa học-kĩ thuật, luôn tìm cách đẩy nhanh sự phát triển bằng cách mua bằng phát minh sáng chế. Tính đến năm 1968, Nhật Bản đã mua bằng phát minh của nước ngoài trị giá 6 tỉ USD. Khoa học-kĩ thuật và công nghệ Nhật Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất ứng dụng dân dụng, đạt được nhiều thành tựu lớn. Ngoài các sản phẩm dân dụng nổi tiếng thế giới (như tivi, tủ lạnh, ôtô v.v.., Nhật Bản còn đóng tàu chở dầu có trọng tải 1 triệu tấn; xây dựng các công trình thế kỉ như đường ngầm dưới biển dài 53,8 km nối hai đảo Hônsu và Hốccaiđô, cầu đường bộ dài 9,4 km nối hai đảo Hônsu và Sicôcư.
Tuy nhiên, nền kinh tế Nhật Bản vẫn có những hạn chế và hặp phải nhiều khó khăn: Lãnh thổ Nhật Bản không rộng, tài nguyên khoáng sản rất nghèo nàn, nền công nghiệp của Nhật Bản hầu như phụ thuộc vào các nguồn nguyên, nhiên liệu nhập khẩu từ bên ngoài. Cơ cấu cùng kinh tế của Nhật Bản thiếu cân đối, tập trung chủ yếu vào ba trung tâm là Tôkiô, Ôxaca và Nagôia, giữa công nghiệp và nông nghiệp cũng có sự mất cân đối. Nhật Bản luôn gặp sự cạnh tranh quyết liệt của Mĩ, Tây Âu, các nước công nghiệp mới, Trung Quốc v.v..
Về chính trị, từ năm 1955 đến năm 1993, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) liên tục cầm quyền ở Nhật Bản. Dưới thời Thủ tướng Ikêda Hayato (1960-1964). Nhật Bản chủ trương xây dựng “Nhà nước phúc lợi chung”, tăng thu nhập quốc dân lên gấp đôi trong vòng 10 năm (1960-1970).
Nền tảng căn bản trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản vẫn là lien minh chặt chẽ với Mĩ. Hiệp ước an ninh Mĩ- Nhật (kí năm 1951) có giá trị trong 10 năm, sau đó được kéo dài vĩnh viễn. Tuy vậy, phong trào đấu tranh của nhân dân Nhật Bản chống Hiệp ước an ninh Mĩ-Nhật, chống chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam, cũng như các cuộc đấu tranh theo mùa (mùa xuân và mùa thu) kể từ năm 1954 trở đi đòi tăng lương, cải thiện đời sống luôn diễn ra mạnh mẽ. Năm 1956, Nhật Bản bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Cùng năm đó, Nhật Bản là thành viên của Liên hợp quốc.
THAM KHẢO THÊM: