Oai phong lẫm liệt uy hùng Cầm quân dẹp loạn tan tành ngoại xâm là ai? Ngoài ra, ở bài viết dưới đây, Luật Dương Gia còn giới thiệu đáp án nhiều câu hỏi thuộc chuỗi sự kiện Thử Tài Lịch Sử Liên Quân, xin mời các bạn cùng theo dõi ngay bài viết dưới đây nhé!
Mục lục bài viết
- 1 1. Oai phong lẫm liệt uy hùng Cầm quân dẹp loạn tan tành ngoại xâm là ai?
- 2 2. Gợi ý “Bài binh bố trận Đánh giặc ngoại xâm Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư (12 ô)” là ai?
- 3 3. Gợi ý “Đời đời truyền tụng tài thao lược Bình bắc đại nguyên soái (12 ô)” là ai?
- 4 4. Gợi ý “Người hộ giá bảo vệ Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông (13 ô)” là ai?
- 5 5. Gợi ý “Lãnh đạo chiến thắng ĐBP lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu (12 ô)” là ai?
- 6 6. Gợi ý “Vị tướng có công đánh đuổi giặc ngoại xâm Trị voi 1 ngà, dựng cờ mở nước (7 ô)” là ai?
- 7 7. Gợi ý “Yếm khăn đội đá vá trời giặc Tô mất vía rụng trời thoát thân (10 ô)” là ai?
1. Oai phong lẫm liệt uy hùng Cầm quân dẹp loạn tan tành ngoại xâm là ai?
Câu hỏi sẽ có rất nhiều đáp án, người chơi hãy kiểm tra xem số ô chữ của mình có bao nhiêu ô chữ, sau đó điền đáp án sao cho thích hợp và chuẩn xác.
Đáp án:
Lý Thường Kiệt
Bà Triệu
Võ Nguyên Giáp
Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo)
Trần Bình Trọng
Trần Thủ Độ
Phạm Văn Đồng
2. Gợi ý “Bài binh bố trận Đánh giặc ngoại xâm Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư (12 ô)” là ai?
Đáp án: Lý Thường Kiệt
Giới thiệu đôi nét về Lý Thường Kiệt
– Lý Thường Kiệt (1019-1105) họ Ngô tên Tuấn, tên thật là Ngô Tuấn, tự là Lý Thường Kiệt, quê ở phủ Thái Hà, thành Thăng Long (Hà Nội)
– Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã là người có chí hướng, ham đọc sách, nghiên cứu các loại binh thư, luyện tập võ nghệ. Ông là người tinh thông có tài văn lẫn tài võ
– Lý Thường Kiệt là vừa là một nhà quân sự, nhà chính trị và vừa là một hoạn quan rất có tiếng vào thời nhà Lý nước Đại Việt bấy giờ. Vào năm 23 tuổi ông đã được bổ nhiệm làm quan theo hầu vua Lý Thái Tông
– Ông đã làm quan trải qua 3 triều vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và có rất nhiều công lao to lớn trong việc chống Tống bình Chiêm khiến ông trở thành một trong hai vị danh tướng vĩ đại nhất dưới thời nhà Lý cùng với Lê Phụng Hiểu
– Trong lịch sử dân tộc, Lý Thường Kiệt nổi bật trong việc đi chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1069, phá tan 3 châu Khâm, Ung và Liêm của nhà Tống (1075-1076). Tên tuổi của Lý Thường Kiệt trong trận chiến 3 châu Khâm, Ung, Liêm vang dội khắp Đại Việt và nước Tống.
– Năm 2013, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch liệt kê Lý Thường Kiệt vào trong 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biêt nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
3. Gợi ý “Đời đời truyền tụng tài thao lược Bình bắc đại nguyên soái (12 ô)” là ai?
Đáp án: Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo)
Giới thiệu đôi nét về Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo)
– Trần Hưng Đạo (1228-1300), tên thật là Trần Quốc Tuấn, tước hiệu là Hưng Đạo đại vương, quê ở làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
– Ông là một nhà chính trị vẹn toàn tài đức, nhà quân sự thiên tài, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời nhà Trần.
– Từ lúc nhỏ ông đã ham thích chơi trò đánh trận, lên sáu tuổi biết làm thơ, học vấn uyên bác, giỏi văn chương, cưỡi ngựa, bắn cung, hiểu thấu lục thao tam lược.
– Ông chỉ huy quân đội đánh tan quân xâm lược Nguyên – Mông trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai vào năm 1285 và lần thứ ba vào năm 1287-1288.
4. Gợi ý “Người hộ giá bảo vệ Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông (13 ô)” là ai?
Đáp án: Trần Bình Trọng
Giới thiệu đôi nét về Trần Bình Trọng
– Trần Bình Trọng (1259-1285) thuộc dòng dõi Đại Hành Hoàng Đế Lê Hoàn, ông sinh ở xã Bảo Thái, nay là huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
– Thuở nhỏ, ông được cha dạy dỗ, giáo dục rất chu đáo. Khi lớn lên, ông là người văn võ song toàn và trở thành một vị danh tướng nhà Trần.
– Ông là một danh tướng thời nhà Trần, có công lớn to lớn trong việc hộ giá bảo vệ cho Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông ở trong cuộc kháng chiến chiến chống quân Nguyên – Mông (1285). Ông đã hy sinh oanh liệt trong khi chặn quân Nguyên ở vùng bãi Thiên Mạc và đã được truy phong tước làm Bảo Nghĩa Vương.
5. Gợi ý “Lãnh đạo chiến thắng ĐBP lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu (12 ô)” là ai?
Đáp án: Võ Nguyên Giáp
Giới thiệu đôi nét về Võ Nguyên Giáp
– Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 – 4/10/2013), tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh là Văn), quê ở làng An Xá, nay thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
– Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, cha là một nhà nho đức độ Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân) và mẹ Nguyễn Thị Kiên. Ngay từ nhỏ, ông sớm được cha mẹ giáo dục, dạy dỗ về lòng yêu nước, căm thù quân giặc xâm lược.
– Ông là Đại tướng đầu tiên, Tổng Tư lệnh tối cao của QĐND Việt Nam, là một trong những thành viên xây dựng nhà nước Việt Nam DCCH, ông được được Chính phủ Việt Nam đánh giá là “người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
– Võ Nguyên Giáp là chỉ huy trưởng của các chiến dịch Chiến tranh Đông Dương vào năm 1946-1954, Chiến tranh Việt Nam vào năm 1960-1975và Chiến tranh biên giới Việt – Trung vào năm 1979. Ông còn tham gia vào rất nhiều các chiến dịch quan trọng khác như Chiến dịch Biên giới thu đông vào năm 1950, Chiến dịch Điện Biên Phủ vào năm 1954, Chiến dịch Tết Mậu Thân vào năm 1968, Chiến dịch Hồ Chí Minh vào năm 1972.
– Ông từng là một người giáo viên dạy sử, là một nhà báo và là ngươi giữ các chức vụ: Ủy viên BCT, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng BQP, Tổng tư lệnh QĐND Việt Nam. Võ Nguyên Giáo được đánh giá là một trong những nhà lãnh đạo quân sự lỗi lạc nhất trong lịch sử nước nhà, ông đã được rất nhiều tờ báo ngợi ca là vị anh hùng dân tộc của nhân dân VN.
– Võ Nguyên Giáo có công lao vô cùng to lớn trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và của cả dân tộc, ông là người có uy tín lớn cả trong và ngoài nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng, Huân chương HCM, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và rất nhiều những huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và của cả quốc tế.
6. Gợi ý “Vị tướng có công đánh đuổi giặc ngoại xâm Trị voi 1 ngà, dựng cờ mở nước (7 ô)” là ai?
Đáp án: Bà Triệu
Giới thiệu đôi nét về Bà Triệu
– Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, có tên gọi khác là Triệu Trinh Nương, hay Nàng Trinh. Quê ở làng Cẩm Trướng, huyện Quân Yên, quận Cửu Chân, nay làng này thuộc xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá.
– Cha mẹ đều mất sớm từ khi bà còn nhỏ thuở nhỏ, bà là em gái của Triệu Quốc Đạt – một hào trưởng lớn ở miền núi huyện Quan yên, quận Cửu Chân (huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa).
– Bà là người có chí lớn, có sức khỏe, giỏi võ nghệ và giàu mưu chí. Năm 19 tuổi, Triệu Thị Trinh cùng anh trai tập hợp nhiều nghĩa sĩ trên đỉnh núi Nưa, quyết tâm đánh giặc Ngô cứu, mài gươm luyện võ, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa.
– Triệu Quốc Đạt lâm bệnh nặng và qua đờ, các nghĩa binh tôn Triệu Thị Trinh lên làm chủ. Khi ra trận, bà mặc áo chiếc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài chiếc trâm vàng, cưỡi voi và được tôn xưng là Nhụy Kiều tướng quân.
– Bà Triệu hi sinh trên núi Tùng khi cuộc khởi nghĩa chống quân Ngô bị đàn áp. Về sau Lý Nam Đế (Lý Bôn) xây dựng miếu để thờ bà và truy phong là Bậc chính anh hùng tài trinh nhất phu nhân.
7. Gợi ý “Yếm khăn đội đá vá trời giặc Tô mất vía rụng trời thoát thân (10 ô)” là ai?
Đáp án: Hai Bà Trưng
Giới thiệu đôi nét về Hai Bà Trưng
– Hai Bà Trưng (14-43) là tên chỉ chung của hai chị em sinh đôi Trưng Trắc và Trưng Nhị, hai bà là con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh – người đứng đầu của bộ lạc huyện Mê Linh, nay là tỉnh Vĩnh Phúc thuộc dòng dõi của Hùng Vương và mẹ là bà Man Thiện.
– Hai Bà Trưng đã mồ côi cha từ sớm nhưng được mẹ dạy dỗ nuôi nấng, dạy nghề trồng dâu, nuôi tằm, lòng yêu nước, rèn luyện sức khoẻ, võ nghệ. Chồng của bà Trưng Trắc là Thi Sách, con trai là Lạc tướng của huyện Chu Diên (ngày nay là tỉnh Hà Tây).
– Trong sử sách của dân tộc, Hai Bà Trưng được biết đến là những người thủ lĩnh đứng lên khởi binh chống lại chính quyền đô hộ của Đông Hán, hai bà lập ra một quốc gia có kinh đô đặt tại Mê Linh, bà Trưng Trắc tự xưng là Nữ vương.
– Vào năm 42-43 vua Hán sai Mã Viện chỉ đạo quân sang nước ta xâm lược, mặc dù cuộc khởi nghĩa chống lại quân xâm lược của Hai Bà Trưng bị thất bại nhưng Hai Bà vẫn được xem là những bậc nữ nhi hào kiệt hiếm có trong lịch sử của dân tộc và là những vị anh hùng dân tộc của Việt Nam.