Hiện nay, hành vi vi phạm bản quyền ngày càng diễn ra nhiều hơn, mức độ vi phạm được đánh giá là nghiêm trọng nhưng vẫn chưa thể giải quyết triệt để được hành vi vi phạm này. Trong một số trường hợp, cá nhân vi phạm thậm chí không biết hành vi của mình là xâm phạm quyền lợi người khác. Vậy hát Karaoke đăng lên mạng có vi phạm bản quyền không?
Mục lục bài viết
1. Hát Karaoke đăng lên mạng có vi phạm bản quyền không?
Vi phạm bản quyền là một trong các thuật ngữ được nhắc đến nhiều trong thời gian gần đây, một hành động được coi là vi phạm bản quyền đó là việc các cá nhân, tổ chức tự ý sử dụng các tác phẩm được pháp luật sở hữu trí tuệ bảo vệ. Hành vi vi phạm được thể hiện bằng cách sử dụng trái phép như sao chép, phân phối hoặc hiển thị và thực hiện các công việc để tạo ra các tác phẩm phái sinh trái quy định. Có nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh việc cá nhân hát karaoke sau đó đăng lên mạng là vi phạm bản quyền, còn trong quan điểm của một số các cá nhân khác thì việc hát karaoke chỉ mang tính chất giải trí không phải là hành vi vi phạm bản quyền. Vậy, vấn đề này được xác định như thế nào thì mới chính xác thì cần xem xét kỹ tìm các quy định mà pháp luật có liên quan đang điều chỉnh về vấn đề này.
Theo quy định của Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH 2019 Luật Sở hữu trí tuệ thì đối tượng quyền tác giả sẽ bao gồm các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; quyền tác giả sẽ bảo vệ đối với các đối tượng bao gồm các cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình hoặc các chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
– Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 33 Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH 2019 Luật Sở hữu trí tuệ có quy định về nội dung liên quan đến việc sử dụng bản ghi âm như sau: tổ chức, cá nhân khi tiến hành sử dụng các ghi âm, ghi hình mà đã tiến hành công bố trong hoạt động kinh doanh thương mại sẽ không bắt buộc phải xin phép tuy nhiên phải tiến hành trả tiền nhuận bút thù lao thực hiện theo đúng như thỏa thuận cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình hoặc tổ chức phát sóng kể từ khi chính thức sử dụng bản ghi âm này;
Riêng đối với trường hợp không thỏa thuận thống nhất được với nhau về tiền nhận bút thù lao cho các cá nhân có thẩm quyền được nhận thì sẽ được thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc nếu tranh chấp xảy ra thì có thể khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật;
Có thể dẫn chiếu đến quy định tại Điều 35
Đồng thời, trong Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH 2019 Luật Sở hữu trí tuệ cũng đã liệt kê tất cả các trường hợp mà cá nhân tổ chức được phép sử dụng tác phẩm âm nhạc đã công bố không phải xin phép và cũng không phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Cụ thể đã được ghi nhận tài khoản 1 Điều 25 của Luật này bao gồm:
+ Khi tiến hành sử dụng các tác phẩm nhưng với mục đích là để phục vụ cho quá trình nghiên cứu khoa học, tiến hành giảng dạy của các cá nhân thì hoàn toàn có thể tự sao chép mà không bị coi là hành vi vi phạm bản quyền;
+ Để có thể tiến hành xây dựng tác phẩm của mình một cách sinh động thì hoàn toàn có thể tiến hành trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa;
+ Trong những bài báo hoặc trong ấn phẩm định kỳ trong chương trình phát thanh, truyền hình ,phim tài liệu nếu trong những trường hợp cần thiết phải sử dụng các tác phẩm để làm dẫn chứng thì có thể trích dẫn tác phẩm mà không được làm sai ý tác giả;
+ Trong quá trình giảng dạy kiến thức trong nhà trường thì việc trích dẫn tác phẩm là một trong những hoạt động cần thiết tuy nhiên cũng phải đảm bảo rằng hoạt động này sẽ không được làm sai ý tác giả và mục đích cũng sẽ không có ý định là thương mại hóa; Đồng thời việc sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu cũng nằm trong trường hợp sẽ không phải trả tiền nhiệm bút thù lao;
+ Các bản ghi âm ghi hình trực tiếp bộ biểu diễn với mục đích là đưa tin lên các trang thông tin truyền thông chính thống như thời sự hoặc đã tiến hành giảng dạy;
+ Tại các nơi công cộng khi xây dựng nhằm mục đích giới thiệu hình ảnh của tác phẩm thì việc chụp ảnh truyền hình tác phẩm, tạo hình kiến trúc nhiếp ảnh, mĩ thuật ứng dụng sẽ được thực hiện trưng bày;
+ Trong một số trường hợp để tạo điều kiện cho các nên là người khiếm thị thì việc chuyển đổi tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác hỗ trợ cho các cá nhân này tiếp tiếp cận các thông tin để hoàn toàn được cho phép;
Với các nội dung quy định nêu trên thì trường hợp cá nhân hát karaoke có sử dụng những tác phẩm những bài hát đã được công bố vào việc kinh doanh dịch vụ để thu lợi nhuận thì việc trả bản quyền cho những sản phẩm karaoke là hoàn toàn chính đáng và hợp pháp. Có thể thấy karaoke là sản phẩm của tập thể, ngoài tác giả bài hát còn có những các cá nhân sản xuất âm nhạc, phối khí do đó những sản phẩm này sẽ nằm trong sự bảo hộ của quyền tác giả, đặc biệt là hoạt động này không nằm trong các trường hợp không phải trả tiền lượng bút thù lao đã được mày rõ trong bài viết nên việc hát karaoke sau đó đăng lên mạng để kiếm lợi nhuận thì sẽ vẫn phải chịu trách nhiệm về vấn đề bản quyền.
2. Hát Karaoke đăng lên mạng bị xử phạt với mức bao nhiêu?
Hát karaoke là một trong những hoạt động thường nhật diễn ra trong đời sống tinh thần của con người tuy nhiên những sở thích hay thú vui nào của các cá nhân cũng phải nằm trong phạm vi cho phép của pháp luật và không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người khác. Bởi trong một số trường hợp việc hát karaoke có ảnh hưởng đến về vấn đề bản quyền tác giả, vi phạm bản quyền thì sẽ đem đến những rắc rối không đáng có.
– Theo quy định tại Khoản 3 Điều 29 Nghị định 131/2013/NĐ-CP được sửa đổi bởi Nghị định 28/2017/NĐ-CP thì hành vi cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại có thể sẽ bị áp dụng mức phạt tiền tùy thuộc vào mức độ hành vi vi phạm khác nhau. Hiện nay, mức phạt tiền thấp nhất được quy định trong việc sử dụng bản ghi âm ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại sẽ là từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng. Mức phạt này sẽ áp dụng cho các nhà hàng cơ sở lưu trú du lịch, cửa hàng, siêu thị mà không trả tiền sử dụng cho chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan theo quy định;
– Mức xử phạt thứ hai có thể sẽ được áp dụng đó là từ 10 triệu đồng đến 15 triệu đồng nếu thực hiện một trong các hành vi sau đây:
+ Các cá nhân, tổ chức tự ý sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng mà không trả tiền sử dụng cho chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan theo quy định;
+ Vì mục đích thương mại mà cố tình sử dụng các bản ghi âm, ghi hình phổ biến trong lĩnh vực hàng không, giao thông công cộng và các hoạt động kinh doanh thương mại khác nhưng không tuân thủ việc trả tiền sử dụng cho chủ sở hữu theo quy định;
– Đặc biệt đối với hành vi vi phạm đó là sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại trong cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ bưu chính viễn thông, môi trường kỹ thuật số nhưng cũng không tiến hành trả tiền sử dụng cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền sở hữu quyền liên quan theo quy định thì bị áp dụng góp phần tiền cao nhất đó là từ 15 triệu đến 25 triệu đồng.
Không chỉ bị xử phạt với mức đã nêu trên thì biện pháp khắc phục hậu quả cũng sẽ được áp dụng đối với các trường hợp này. Theo đó, nếu hành vi vi phạm đã được quy định tại khoản 2, 3 của Điều 29 Nghị định này thì sẽ bắt buộc phải dỡ bỏ bản ghi âm, ghi hình dưới hình thức điện tử hoặc trên môi trường internet cụ thể là YouTube.
Như vậy, hành vi hát karaoke đăng lên mạng để thu lợi nhuận thì có thể sẽ bị phạt tiền từ 15 triệu đến 25 triệu đồng nếu không thực hiện đúng và các quy định về bản quyền tác giả. Đồng thời cũng sẽ phải thực hiện việc gỡ bỏ toàn bộ những sản phẩm đang có vi phạm.
3. Cách giải quyết khi phát hiện hành vi vi phạm bản quyền:
Như đã biết, thực trạng các cá nhân khi tiến hành cover một bài hát rồi đăng lên YouTube mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu sản phẩm này thì đối với các cá nhân, tổ chức đang bị trực tiếp xâm phạm quyền lợi sẽ phải nhanh chóng có những hoạt động thiết thực rất được hành vi vi phạm, cụ thể:
– Thứ nhất, khi phát hiện ra hành vi vi phạm bản quyền thì cần nhanh chóng thu thập các bằng chứng thông qua các hình thức như chụp ảnh, ghi hình hoặc có thể yêu cầu thừa phát lại lập lên bảng đối với hành vi vi phạm. Trong một số trường hợp nếu mà để chắc chắn đảm bảo được sự ghi nhận hành vi vi phạm này thì có thể tiến hành giám định tại các tổ chức giám định sở hữu trí tuệ hoặc của cơ quan nhà nước;
– Thứ hai, Sau khi đã thu thập được tất cả các bằng chứng có liên quan về vi phạm thì tiến hành gửi văn bản cảnh báo yêu cầu chấm dứt hành vi đối với cá nhân tổ chức vi phạm. Trong trường hợp khi nhận được văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi mà cá nhân, tổ chức vi phạm đã nhận thấy hành vi của mình là đang xâm phạm đến quyền lợi của các cá nhân, tổ chức khác thì sẽ tiến hành nhanh chóng chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi công khai hoặc tiến thành bồi thường thiệt hại nếu có xảy ra trên thực tế.
Việc gửi văn bản cảnh báo này cũng sẽ được gửi kèm theo các chứng cứ vi phạm đã được chuẩn bị trước và đồng thời sẽ cung cấp các thông tin cơ bản về những hệ quả pháp lý nếu cá nhân tổ chức này cố tình không chấm dứt hành vi vi phạm bản quyền kia. Pháp luật hiện nay vẫn luôn khuyến khích các cá nhân, tổ chức khi xảy ra những tranh chấp tiến hành thương lượng hòa giải với nhau vì sẽ tốn kém đỡ tốn kém về thời
– Thứ ba, đối với trường hợp các bên không tiến hành thương lượng với nhau thì chủ sở hữu hợp pháp sẽ tiến hành nộp đơn yêu cầu xử lý vi phạm bản quyền tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hiện nay hành vi vi phạm bản quyền có thể sẽ bị xử lý giữa ba hình thức như dân sự hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào mức độ hành vi vi phạm
Văn bản pháp luật được sử dụng:
– Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH 2019 Luật Sở hữu trí tuệ;
–
– Nghị định số 28/2017/NĐ-CP của Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan và