Quy định về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. So với quy định của BLHS 1999, BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định có những điểm mới cơ bản nào?
Theo quy định tại Điều 260 của
1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;
c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên; c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
So với quy định của BLHS 1999, BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định có những điểm mới cơ bản sau:
Thứ nhất, về kết cấu của điều luật: Điều 260
Ngoài ra, Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thay đổi từ điều khiển giao thông thành từ tham gia giao thông. Đây là sự sửa đổi phù hợp với quy định của Luật giao thông đường bộ, đồng thời bao quát được các đối tượng vi phạm quy định do Luật giao thông đường bộ điều chỉnh (không chỉ có người điều khiển phương tiện).
Thứ hai, về mức hậu quả cấu thành tội phạm và mức hình phạt:
+ Về mức hậu quả cấu thành tội phạm: Khoản 1 Điều 202
BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC ngày 28 tháng 8 năm 2013) quy định mức hậu quả do vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây ra bị truy cứu trách nhiệm hình sự là:
– Gây thương tích cho một người từ 31% trở lên;
– Hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới bảy mươi triệu đồng;
Hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của từ hai người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới bảy mươi triệu đồng;
– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ bảy mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.
Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã thay đổi quy định về mức độ hậu quả do vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ làm cơ sở để quy kết trách nhiệm hình sự. Cụ thể là gây ra một trong các hậu quả sau đây mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự:
– Làm chết người;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
– Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. Theo đó, điều luật của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung sung năm 2017) đã loại bỏ mức độ hậu quả gây tổn thương cơ thể của 01 người dưới 61%, loại bỏ mức độ hậu quả tổn thương cơ thể của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này dưới 61% và loại bỏ mức độ thiệt hại vật chất dưới 100.000.000 đồng làm cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. Đồng thời điều luật mới cũng loại bỏ quy định cộng chung mức độ thiệt hại kép về sức khỏe con người và vật chất như quy định ở điều Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý là, khi chưa có thiệt hại xảy ra thì người vi phạm vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đủ các điều kiện quy định tại khoản 4 của Điều 260 Bộ luật hình sự.
+ Về hình phạt: Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ năm 2017) quy định hình phạt thấp nhất trong trường hợp tội phạm đã hoàn thành, hậu quả đã xảy ra là phạt tiền 30.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, phạt tù 01 năm; hình phạt cao nhất là phạt tù đến 15 năm. Như vậy, so với quy định của Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 thì mức hình phạt thấp nhất về phạt tiền (là hình phạt chính) tăng lên gấp 6 lần (từ 5.000.000 đồng lên 30.000.000 đồng) nhưng mức hình phạt cao nhất về hình phạt tù có thời hạn không thay đổi. Nhìn tổng thể về phần hình phạt thì quy định của Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) so với quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 là không có lợi cho người phạm tội đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0h00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì:
Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Đối chiếu quy định này với khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt này là 05 năm tù, người phạm tội nếu bị xét xử ở khung hình phạt này thì thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng và lỗi do vô ý. Do đó, nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì có thể họ được miễn trách nhiệm hình sự nếu thỏa mãn các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015. Đây là quy định có lợi cho người phạm tội mà chúng ta cần phải chú ý khi áp dụng pháp luật đối với những hành vi phạm tội liên quan đến tội phạm này.
Thứ ba, về những nội dung thay đổi ở từng khung hình phạt; Về khoản 1 của điều luật: Về kết cấu, khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 không phân định các tình tiết định khung cơ bản, chỉ xác định mức độ hậu quả để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ là “gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác”, mức độ hậu quả này được hướng dẫn си thể tại các văn bản dưới luật tại Tiểu mục 4.1. Mục 4
– Khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thiết theo hướng xác định cụ thể định mức thấp nhất hậu quả thiệt hại làm cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ gồm 04 mức tương ứng tại các điểm a, b, c, d khoản 1. Trong đó, điểm a là quy định về hậu quả xâm phạm tính mạng con người, điểm b, c quy định về hậu quả xâm phạm sức khỏe con người và điểm d là quy định hậu quả xâm phạm tài sản của người khác.
Đối chiếu quy định tại 4 điểm trong khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với hướng dẫn tại các văn bản dưới luật đã viện dẫn trên thì thấy, điểm a và điểm d của điều luật mới là quy định pháp điển hóa hướng dẫn tại khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC. Trong đó mức độ hậu quả tại điểm a được giữ nguyên (làm chết người), mức độ hậu quả tại điểm d được giữ nguyên phần thiệt hại tài sản cao nhất (dưới 500.000.000 đồng), sửa đổi phần thiệt hại tài sản thấp nhất (từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng).
Hai tình tiết định khung cơ bản còn lại quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng được luật hoá theo hướng dẫn tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT- BCA – BQP – BTP- VKSNDTC – TANDTC nhưng mức độ thiệt hại về sức khỏe con người có thay đổi theo hướng tỷ lệ tổn thương cơ thể một người bị tổn hại dưới 61% thì không truy cứu trách nhiệm hình sự và tỷ lệ tổn thương cơ thể của hai người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của họ dưới 61% cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Một thay đổi nữa trong khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là mức hình phạt. Trong đó mức khởi điểm của hình phạt tiền tăng lên gấp 6 lần, mức cao nhất của phạt tiền tăng gấp 02 lần (từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng); giữ nguyên mức hình phạt cải tạo không giam giữ; tăng mức khởi điểm của hình phạt tù có thời hạn từ 06 tháng lên 01 năm.
Ngoài ra, hai tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại các điểm b và c của khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi một số nội dung nhỏ tại quy định tương ứng của khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cụ thể, nội dung điểm b khoản 2 Điều 260 có thêm tình tiết “có sử dụng chất ma túy” vào trước cụm từ “hoặc các chất kích thích mạnh khác”; nội dung quy định tại điểm c đã loại bỏ cụm từ “gây tai nạn rồi” của quy định cũ – theo quy định cũ thì cụm từ “gây tai nạn rồi” này không có ý nghĩa thực tiễn cao vì bản chất điều luật đang điều chỉnh hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ gây tai nạn hoặc có nguy cơ rõ ràng gây tai nạn với một mức độ hậu quả được ấn định cụ thể.
Khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được thiết kế với 03 tình tiết định khung tăng nặng. Cách diễn đạt này có khác so với khoản 3 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 nhưng về bản chất thì những tình tiết định khung quy định tại các điểm a, b, c khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là cách thức diễn giải chi tiết yếu tố định khung của khoản 3 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 là “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Trong đó, điểm a và điểm c khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là việc pháp điển hóa toàn bộ nội dung quy định tại điểm a, điểm g khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT BCA BQP BTP VKSNDTC TANDTC. Riêng điểm b khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự mới thì có thay đổi về mức độ hậu quả so với các điểm còn lại b, c, d, đ, e khoản 3 Điều 2 của
Về khoản 4 của điều luật: Khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 có ba nội dung thay đổi quan trọng so với khoản 4 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999.
Một là, nếu quy định về hậu quả có thể xảy ra tại khoản 4 Điều 202 của Bộ luật hình sự cũ là “đặc biệt nghiêm trọng” thì khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự mới liệt kê rõ các hậu quả có thể xảy ra thuộc các điểm a, b, c ở khoản 3 của điều luật này;
Hai là, khoản 4 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 không có hình phạt tiền, khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định hình phạt tiền là hình phạt chính với mức từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng;
Ba là, mức cao nhất tại khung hình phạt tù có thời hạn ở khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thấp hơn khoản 4 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 là 01 năm tù (mới là từ 03 tháng đến 01 năm; cũ là từ 03 tháng đến 02 năm);
Khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và có sửa lại một số cụm từ cho phù hợp. Trong đó, có nội dung thay đổi chủ yếu là: Sửa đổi quy định “có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác” thành quy định “có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này”.