Sự hình thành phát triển công ty cổ phần trên thế giới? Một số khái niệm đặc điểm của công ty cổ phần?Quy định pháp luật về công ty cổ phần? Một số công ty cổ phần lớn trên thế giới?
“Kinh doanh? Rất đơn giản; đó là tiền của người khác” – Alexandre Dumas (Một đại văn hào người Pháp gốc Phi). Một loại hình công ty huy động vốn hiệu quả nhất tập hợp vốn từ nhiều cá nhân tổ chức để hoạt động công ty với số vốn nó huy động được chịu trách nhiệm hữu hạn trong số vốn mà nó có, tạo niềm tin và thu hút nhiều vốn từ nhà đầu tư lớn đó là mô hình công ty cổ phần. Công ty cổ phần đã và đang phát triển lâu bền và có sức ảnh hưởng thế giới được cho là mô hình công ty phát triển bậc nhất hiện tại. Để biết thêm lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần cho đến hiện tại mời bạn đọc tham khảo bài viết sau:
Căn cứ pháp lý:
Mục lục bài viết
1. Sự hình thành phát triển công ty cổ phần trên thế giới:
Đến thời của người La Mã, ở tầng lớp bình dân, một số người thợ thủ công và gia thương mở các collegia hoặc corpora (công ty) , tự chọn ra người quản lý và được cấp phép hành nghề.
Người la mã đưa ra các khái niệm cơ bản của luật lệ công ty, như ý tưởng một nhóm người tập hợp lại với nhau lập thành một thực thể không tách rời họ. Có hai tổ chức mà người La Mã tập hợp và đã được thành lập. Đó là những thương gia tại Ý và với công ty của ông, cùng các guild (hiệp hội) được chính quyền cấp phép tại miền bắc Âu Châu. Sự góp vốn ngày càng trở nên đa dạng hơn nữa khi việc đầu tư được nâng dần lên chia nhỏ thành các đợt, và có cả những người nước ngoài tham dự, cơ cấu của quyền sở hữu cũng được mở rộng. Chẳng hạn, giới thương gia ở Venise lập nên tổ hợp (consortium) các công ty của chính quyền nhằm chuyên chở hàng hoá, và chi phí trên mỗi chuyến đi được thu lại bằng việc chia 24 phần góp cho những người cộng tác.
Danh từ compania có gốc Latin là cum and pania, tức cùng nhau ăn cái bánh. (Lợi ích được chia nhỏ)
Có lẽ ngay sau năm 1340, những tổ chức này đã áp dụng kế toán kép nhằm giúp nhân viên tại văn phòng của họ ở nước ngoài làm việc hiệu quả.
Thêm vào, thay vì gửi tiền vàng thì những thương gia đã trở nên tin tưởng nhau và sử dụng séc. Thực sự, compagnia đã liên kết mật thiết với banchi, tức là ngân hàng và ngân hàng Ý là bậc thầy trong lĩnh vực này.
Các guild liên kết với những “công ty được cấp phép”. Công ty lớn là một hội của những thương gia nhỏ được chính quyền trao sự độc quyền hoạt động tại một thị trường nước ngoài nào đó. Chính quyền dành cho CTĐCP những đặc quyền cùng sự bảo đảm về kinh tế giúp nó phát triển, tương tự như ngày nay các chính phủ trao cho các công ty nước ngoài một số hợp đồng về quốc phòng vậy. (đã có sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau của cả doanh nghiệp và chính phủ)
Các CTĐCP đã tiếp thu cả hai ý tưởng của thời Trung cổ, là bán chứng khoán trên thị trường OTC và tính trách nhiệm hữu hạn chung cho mọi thành viên. Vì vậy, chúng cũng được coi là CTCP.
Đã có những ý kiến phê bình về CTCP khi Sir Edward Coke (1552-1634) nói: “chúng không thể phạm tội ác, cũng không thể bị đưa ra ngoài vòng luật pháp hoặc toà án, bởi vì chúng không có linh hồn”. Do đó, nó còn được ưa sử dụng. Do điều này và cũng vì những biến cố đã nói, số lượng các CTCP ra đời ở Anh đã giảm đi và nhiều doanh nhân đã chuyển hướng qua mở các CTCP ở Hoa Kỳ.
Ở Hoa Kỳ các CTCP phát triển khá ổn định và không bị biến động nhiều. Ban đầu là công ty cổ phần phát triển nhằm tài trợ vào dự án xây dựng đường sắt, và sau là để thiết lập hệ thống phân phối và dịch vụ trên phạm vi toàn quốc của Hoa Kỳ. Chính là vì yêu cầu hỗ trợ cho một số công ty phát triển đường sắt nên thị trường chứng khoán ở New York ban bố luật pháp mang tính trách nhiệm cá nhân dành cho những công ty này. Như vậy công ty có cổ phần sẽ nhận trách nhiệm trên tổng số tiền nó có mà không phải là của người bỏ vốn vào. Nhờ có điều luật trên, tiền sinh sôi nhanh chóng ngày càng nhiều chảy về New York và tính hữu hạn đó trở nên phổ biến và những bang khác không sử dụng đến nó sẽ không nhận thêm đầu tư.
Từ sự tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ các công ty cổ phần lớn mạnh không ngừng và nhiều nước ở Châu Âu cũng phải chạy theo. Do vậy, họ đã giảm dần sự quản lý các công ty.
Ví dụ như Ở Anh, chính quyền cũng đã nới bớt luật lệ dành các công ty.
Năm 1825, theo các luật khác, họ bỏ luật cấm thành lập công ty cổ phần đã có năm 1720.
Từ khoảng năm 1830, đường sắt được thành lập giữa những địa phương, nhiều công ty xe lửa đã ra đời; họ bán cổ phần trên thị trường chứng khoán, và nhằm tăng thêm sự cạnh tranh, họ cũng bán cả cổ phiếu phổ thông, nhưng không ở London mà còn ở các nơi khác. Ngoài ra, nhiều công ty bưu chính và điện báo cũng phát triển. Các sự kiện đã thúc đẩy Quốc hội Anh phải thông qua luật nhằm đặt CTCP trở lại vòng trật tự.
Luật về CTCP được thông qua năm 1844. Theo luật, mọi công ty mới được thành lập không phải xin giấy phép mà chỉ cần đăng kí. Tuy vậy, luật lại không cho công ty được nhận mức trách nhiệm hữu hạn. Sự này đã khiến nảy sinh sự nghi ngờ và cũng chính là thể hiện sự nghi ngờ của dân chúng đối với các công ty Anh lúc bấy giờ.
Vào đầu năm 1850 có hơn 40 công ty của Anh đã đến Pháp được thành lập do chi phí thành lập ở Pháp là khá cao.
Chính phủ của Anh sợ mất kinh tế nên 1855 đã ban hành luật quy định tính trách nhiệm hữu hạn đối với những công ty đã được thành lập theo luật về CTCP.
Cuối cùng tất cả hai luật kể trên được gộp làm một vào năm 1862.
Vào thời điểm ấy, nước Anh là bá chủ trong đại dương và là một cường quốc trên toàn cầu. Luật công ty của Hoa Kỳ cũng chịu ảnh hưởng của Anh vì sự ra đời của nước Hoa Kỳ. Các nước trong Khối thịnh vượng chung ngày nay có luật công ty cũng giống với của Anh
Riêng Đức và Pháp đi theo một con đường khác vì xung đột trong văn hoá. Công ty của Đức bị luật quản lý khắt khe và không linh hoạt bằng công ty của Anh và Hoa Kỳ. Ở Pháp, các công ty này cần có giấy phép của chính quyền khi hoạt động vì họ lập nên hình thức societe en commandite par actions (hội hợp tư cổ phần) , và một số thành viên không can thiệp được quá trình điều hành hội sẽ chịu những trách nhiệm cá nhân. Năm 1807, bộ luật Napoleon thiết lập một nền tảng cho công ty bằng việc cấm các hội hợp tư cổ phần, và vào năm 1863 thì luật công ty trách nhiệm hữu hạn xuất hiện.
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, CTCP bắt đầu phát triển ở hàng loạt lĩnh vực khác nhau như đường sắt, thuỷ lợi, xây dựng, một số ngành sản xuất máy móc, thiết bị, bảo hiểm. .. ? một số nước tư phản phát triển và về sau phát triển mạnh ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đến khoảng năm 20, 30 của thế kỷ XIX, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, nền kinh tế thế giới có bước phát triển vượt bậc, điều đó đưa đến yêu cầu cần huy động được lượng vốn khổng lồ cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – kỹ thuật. Công ty cổ phần là một trong các hình thức có thể giải quyết được bài toán huy động vốn. Vì vậy, có người nhận xét rằng “Nếu như cứ phải chờ cho tới khi tích luỹ khiến cho số tư bản riêng lẻ lớn lên đến độ có thể đảm nhiệm cả việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến bây giờ thế giới đã không có đường sắt” . Sự xuất hiện của CTCP đã giúp cho nhiều nhà doanh nghiệp xử lý các vấn đề huy động nguồn vốn một cách nhanh chóng.
Cuối cùng cho đến ngày nay, trải qua lịch sử phát triển dài lâu, CTCP đã từ giới hạn ở một nước hay một khu vực nhất định mà đã phát triển trở thành những công ty đa quốc gia và kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau, theo như nhận định: “Công ty cổ phần đã phát triển ở tất cả các nước từ cơ bản đến cao cấp, từ quy mô bé đến quy mô to, từ một ngành đến đa ngành, từ một quốc gia đến nhiều quốc gia thông qua các công ty siêu quốc gia”.
2. Một số khái niệm đặc điểm của công ty cổ phần:
2.1. Nguyên tắc hoạt động:
Công ty cổ phần là tổ chức có trách nhiệm hữu hạn, được hình thành và hoạt động tách biệt hoàn toàn với cá nhân người sở hữu nó. Vốn điều lệ của công ty được phân chia làm những phần khác nhau như là cổ phần và có thể chào bán riêng lẻ nhằm thu hút sự tham gia của nhiều nhà đầu tư.
Công ty cổ phần là một tổ chức kinh tế; được mang tên riêng, có chi nhánh và trụ sở làm việc; được miễn Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật về điều kiện thực hiện hoạt động kinh doanh.
2.2. Ưu điểm:
Nhà đầu tư phải chịu trách nhiệm tài chính tương xứng với tỷ lệ có vốn trong công ty, khả năng huy động vốn rất cao;
Việc hoạt động của công ty đạt hiệu quả cao nhờ sự tách bạch giữa đầu tư và quyền sở hữu;
Quy mô hoạt động đa dạng và khả năng phát triển kinh doanh nhanh chóng bằng việc góp vốn cổ phần;
Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn kinh doanh từ nơi này sang nơi kia, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác nhanh chóng bằng việc sáp nhập, mua bán cổ phần.
2.3. Nhược điểm:
Vì ngoài thuế mà công ty phải làm nghĩa vụ với ngân sách nhà nước dó đó mức thuế khá cao và các cổ đông cũng phải nộp thuế thu nhập cá nhân từ tiền cổ tức và lãi cổ phần theo qui định của pháp luật;
Chi phí cho hoạt động của công ty rất tốn kém;
Khả năng bí mật kinh doanh và tài chính bị giới hạn vì công ty phải công khai thông tin kế toán với nhiều cổ đông;
Khả năng mở rộng phạm vi ngành nghề kinh doanh cũng như trong hoạt động tài chính không linh hoạt vì phải thực hiện theo các yêu cầu trong Điều lệ của công ty, thậm chí có trường hợp phải được Đại hội đồng Cổ đông của Công ty Cổ phần thông qua (đại hội đồng cổ đông công ty cổ phần bao gồm quá nhiều thành viên).
3. Một số công ty cổ phần lớn trên thế giới:
1. Công ty Apple:
Theo Forbes, Apple dẫn đầu danh sách top 10 với mức vốn hoá thị trường là 2.252 tỉ USD. Đồng thời Apple cũng đạt vị trí cao nhất thế giới năm 2020 trong top 10 thương hiệu giá trị nhất thế giới.
2. Công ty Microsoft:
Đứng thứ 2 là Microsoft với vốn hoá 1.967 tỉ USD. Microsoft vẫn giữ được vị thế của mình trong lĩnh vực sản xuất phần mềm máy tính cá nhân.
3. Công ty Saudi Arabian Oil Company (Saudi Aramco) Saudi Arabian Oil Co
Đứng thứ 3 với vốn hoá 1.897 tỉ USD. Công ty tham gia vào hoạt động khai thác, chế biến, phân phối và bán dầu mỏ và khí đốt thiên nhiên. Saudi Aramco đã bị Apple “vượt mặt” để trở thành công ty có doanh thu cao nhất thế giới năm 2020 nhờ tác động mạnh của COVID – 19.
4. Công ty Amazon:
Đứa con của tỉ phú Jeffrey P. Bezos có vốn hoá là 1.712 tỉ USD. Năm 2020, bất chấp nhiều lĩnh vực kinh doanh bị COVID – 19 đánh bại thì Amazon vẫn vươn mình giúp Jeff Bezos trở lại ngôi vị người giàu có nhất thế giới.
5. Công ty Alphabet Alphabet:
Công ty mẹ của Google, đứng thứ 5 với vốn hoá đạt khoảng 1.539 tỉ USD. Phân khúc của Google bao gồm nhiều nền tảng Internet khác nhau quảng cáo trên Android, Chrome, Gmail, Google Cloud, Google Maps, Google Play, Tìm kiếm và YouTube.