Các hình thức hòa giải hiện nay bao gồm: Hòa giải ngoài tố tụng và Hòa giải trong tố tụng? Phân tích vai trò và ý nghĩa của hòa giải?
Mục lục bài viết
1. Các hình thức hòa giải hiện nay:
Hoạt động hòa giải có ý nghĩa to lớn trong việc giải quyết các tranh chấp, xung đột, xích mích, mâu thuẫn được dập tắt hoặc không vượt qua giới hạn của sự nghiêm trọng, giúp các bên tránh được những xung đột không đáng có, gìn giữ cục diện ổn định, ... Với vai trò quan trọng như vậy, hoạt động hòa giải được áp dụng trong giải quyết tranh chấp được các nước trên thế giới coi trọng, trong đó có Việt Nam.
Quá trình phát triển đất nước cũng như kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hòa giải đóng vai trò đặc biệt quan trọng, là nhu cầu và đòi hỏi của xã hội để giải quyết tranh chấp phát sinh; hòa giải là một trong những nguyên tắc hàng đầu trong việc giải quyết tranh chấp, điều này được quy định tại Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, có thể phân loại cơ chế hòa giải trong giải quyết tranh chấp, khiếu kiện thành hai nhóm như sau: (1) hòa giải ngoài tố tụng hoặc hòa giải tiền tố tụng không gắn với hoạt động tố tụng của
1.1. Hòa giải ngoài tố tụng:
Hiện nay, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì việc hòa giải tranh chấp dân sự cũng có nhiều cơ chế khác nhau như: (1) việc tự thương lượng, thỏa thuận hoặc hòa giải thông qua người thứ ba trung gian bất kỳ; (2) hòa giải do Tổ hòa giải cơ sở tiến hành theo Luật Hòa giải tại cơ sở; (3) hòa giải tranh chấp lao động theo quy định của Bộ luật Lao động; (4) Hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của Luật Đất đai; (5) Hòa giải thương mại theo quy định của Luật Thương mại; (6) hòa giải tại
*Hòa giải cơ sở
Hoạt động hòa giải ở cơ sở là công tác hòa giải được thực hiện ngay tại cộng đồng dân cư và bởi các hòa giải viên thuộc các tổ hòa giải. Tổ hòa giải là tổ chức tự quản của nhân dân được thành lập ở cơ sở (gồm thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố và cộng đồng dân cư khác) để thực hiện giải quyết hòa giải. Cơ cấu tổ chức của tổ hòa giải bao gồm tổ trưởng và các hòa giải viên, thông thường mỗi tổ hòa giải sẽ có 3 hòa giải viên trở lên. Những người được bầu làm hòa giải viên là những người có các tiêu chuẩn như: có uy tín trong cộng đồng dân cư, hiểu biết pháp luật, có khả năng thuyết phục và vận động nhân dân,...
Hoạt động hòa giải ở cơ sở là việc giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp trên cơ sở hướng dẫn, giúp đỡ, khuyến khích, thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng, ngăn ngừa kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, giảm bớt vụ việc phải đưa lên
Trình độ của đội ngũ hòa giải viên cũng là vấn đề bất cập cần được quan tâm nhất hiện nay, tuy đông nhưng chưa đảm bảo về chất lượng. Theo số liệu thống kê của Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ninh, tính đến hết năm 2017, toàn tỉnh có 1.572 tổ hòa giải với 9.117 hòa giải viên tuy nhiên, chỉ 275 hòa giải viên có trình độ chuyên môn về luật (chiếm 0,03%), còn lại 8.842 người chưa qua đào tạo chuyên môn về luật. Đây thực sự là vấn đề khó khăn khi thực hiện quá trình hòa giải lại là những người không am hiểu pháp luật dẫn đến hạn chế về hiệu quả và chất lượng của việc hòa giải .
* Hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của Luật Đất đai và hòa giải tranh chấp lao động theo quy định của Bộ luật Lao động
Pháp luật có quy định các chủ thể trong mối quan hệ tranh chấp phải thực hiện hòa giải thông qua cơ quan hòa giải, đây là thủ tục bắt buộc và là một trong các điều kiện để thụ lý vụ án theo quy định pháp luật. Đây được coi là giai đoạn có tính chất pháp lý bắt buộc trước khi nộp đơn khởi kiện lên Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Trong một số trường hợp tranh chấp được giải quyết tại Tòa án bắt buộc phải trải qua thủ tục hòa giải tiền tố tụng được thực hiện trước giai đoạn xét xử.
Kết quả của hòa giải có thể dẫn đến việc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm hoặc dẫn đến quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của nguyên đơn. Thông thường quy trình giải quyết vụ án dân sự sẽ không bao gồm thủ tục này, tuy nhiên có 2 trường hợp bắt buộc phải thực hiện hòa giải tiền tố tụng sau đó mới có thể khởi kiện vụ việc dân sự ra Tòa án có thẩm quyền giải quyết: tranh chấp đất đai và tranh chấp lao động.
Tranh chấp đất đai: Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hay nhiều bên trong quan hệ đất. Đối với loại tranh chấp này, trước khi khởi kiện ra Tòa án bắt buộc phải thông qua thủ tục hòa giải, chỉ khi thực hiện thủ tục tiền tố tụng này xong rồi nhưng kết quả hòa giải không thành thì đương sự mới đủ điều kiện yêu cầu Tòa án giải quyết đơn khởi kiện của mình.
Một số dạng tranh chấp phổ biến liên quan đến đất đai như: tranh chấp xác định ai là người có quyền sử dụng đất với toàn bộ thửa đất hoặc một phần thửa đất, bao gồm cả tranh chấp ranh giới giữa các thửa đất liền kề. Thông thường hòa giải tranh chấp này sẽ diễn ra tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp. Do vậy, trường hợp chưa hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp thì Tòa án sẽ không xem xét, thụ lý đơn khởi kiện mà trả lại đơn.
Tranh chấp lao động: Tranh chấp lao động xảy ra trong quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình lao động phát sinh nhiều yếu tố làm cho lợi ích hai bên không còn phù hợp với nhau. Tranh chấp lao động cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Tòa án giải quyết (Khoản 1, điều 201 Bộ luật lao động 2012 quy định các trường hợp không bắt buộc thực hiện thủ tục hòa giải trước khi khởi kiện). Vì thế, khi người lao động chưa tiến hành hòa giải mà đã khởi kiện thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện do không đảm bảo đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại điểm b, khoản 1, điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
*Hòa giải theo thủ tục trọng tài
Hòa giải theo thủ tục trọng tài là việc các bên tranh chấp yêu cầu Hội đồng trọng tài hòa giải để thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của Trọng tài do các bên thỏa thuận. Thông thường, hòa giải theo thủ tục trọng tài được áp dụng với các vụ tranh chấp liên quan đến thương mại và kinh tế. Nguyên tắc của việc thỏa thuận này là trong trường hợp các bên đã có thỏa thuận hòa giải thông qua Trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý vụ việc.
Vụ việc được hòa giải trên nguyên tắc giữ bí mật tranh chấp, các bên được quyền tự do lựa chọn ngôn ngữ, địa điểm để giải quyết tranh chấp. Khi các bên thỏa thuận được với nhau về kết quả giải quyết tranh chấp thì Hội đồng trọng tài lập biên bản hòa giải thành và có chữ ký của các bên cùng xác nhận của trọng tài viên, sau đó Hội đồng trọng tài sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên, quyết định này mang tính chung thẩm nên các bên đương sự không thể kháng cáo, kháng nghị. Các quyết định của trọng tài được công bố quốc tế thông qua công ước quốc tế, đặc biệt là công ước New York 1958.
Tuy nhiên, đây không phải là hoạt động giải quyết tranh chấp được ưa chuộng vì chi phí cho việc hòa giải cao nhưng tính cưỡng chế không cao so với Tòa án. Phán quyết của trọng tài đưa ra có tính chung thẩm, trong trường hợp đưa ra phán quyết không chính xác sẽ gây thiệt hại cho các bên và mất thời gian khi phải làm đề nghị hủy phán quyết.
Như vậy, hình thức hòa giải ngoài tố tụng là phương thức giải quyết tranh chấp độc lập với quá trình tố tụng của Tòa án, được xuất phát từ thiện chí giải quyết tranh chấp của các bên, chủ thể tham gia tự mình thực hiện thương lượng và hòa giải. Đây là hoạt động được diễn ra trước các giai đoạn tố tụng và không mang tính chất bắt buộc, kết quả của hoạt động hòa giải này cũng không mang tính chất bắt buộc thi hành mà sẽ do các bên chủ thể hòa giải quyết định.
Hòa giải ngoài tố tụng có ý nghĩa to lớn trong việc giải quyết các tranh chấp mà không cần thông qua hoạt động tố tụng giúp giải quyết ổn thỏa các mâu thuẫn phát sinh trong đời sống, giảm tải số lượng vụ án yêu cầu giải quyết cho Tòa án nhân dân trong điều kiện từ cuối năm 2017, Tòa án nhân dân còn phải giảm biên chế chung theo chủ trương của Đảng. Mặc dù có những kết quả nhất định, số lượng tranh chấp được hòa giải ngoài tố tụng (do Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án mới chỉ có hiệu lực vào ngày 01/01/2021 vừa qua) chỉ chiếm phần nhỏ so với số lượng tranh chấp mà Tòa án phải thụ lý, giải quyết hàng năm.
1.2. Hòa giải trong tố tụng:
Theo quy định của pháp luật, chủ thể là các cá nhân, tổ chức hay pháp nhân khi bị xâm hại về quyền và lợi ích hợp pháp có thể khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình. Do vậy, trong trường hợp các bên không thể giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp hoặc bất hòa thông qua con đường hòa giải ngoài tố tụng hoặc hòa giải tiền tố tụng và họ thực hiện quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Mặc dù tranh chấp, yêu cầu đã được Tòa án thụ lý, giải quyết, tuy nhiên pháp luật luôn đảm bảo rằng các chủ thể có quyền tự định đoạt hành vi của mình và tạo điều kiện cho các bên đương sự tự thỏa thuận với nhau để giải quyết vụ án dưới sự giúp đỡ của Tòa án.
Chính vì lẽ này, trách nhiệm hòa giải của Tòa án để giúp các bên đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ việc dân sự là một trong những nguyên tắc quan trọng thể hiện tính đặc trưng và riêng biệt của TTDS và việc Tòa án áp dụng các quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hòa giải đã trở thành chế định quan trọng trong pháp luật TTDS. Như vậy, ngay cả khi đương sự đã khởi kiện ra Tòa án thì tranh chấp giữa các bên vẫn có thể được giải quyết thông qua con đường hòa giải.
Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của Đại học Luật Hà Nội định nghĩa “Hòa giải vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự”. Mặc dù bản chất của hòa giải trong tố tụng cũng là sự thỏa thuận giữa các bên đương sự như các trường hợp hòa giải khác, tuy nhiên, hòa giải trong tố tụng có những điểm khác so với các hình thức hòa giải khác ở những điểm:
– Khác với các hoạt động hòa giải khác, hòa giải trong tố tụng được tiến hành sau khi Tòa án thụ lý vụ án theo sáng kiến của Tòa án, do Tòa án trực tiếp tiến hành hoặc theo sáng kiến của chính các đương sự trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Theo pháp luật TTDS Việt Nam, hòa giải được coi là một nguyên tắc, là một thủ tục bắt buộc mà Tòa án phải tiến hành trước khi đưa vụ việc ra phiên tòa, phiên họp sơ thẩm (trừ trường hợp pháp luật quy định không được hòa giải và những trường hợp không tiến hành hòa giải được).
Do vậy, dấu hiệu về hoạt động hoạt động hòa giải được tiến hành sau khi Tòa án thụ lý vụ án là cơ sở để phân biệt hòa giải trong tố tụng và hòa giải ngoài tố tụng do các chủ thể khác như trọng tài, ủy ban nhân dân, tổ hòa giải cơ sở, và thậm chí cả Trung tâm hòa giải, đối thoại thực hiện.
– Hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm
Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam quy định hòa giải là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, được tiến hành để giải quyết vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự).
Theo đó, Thẩm phán được Chánh án phân công giải quyết vụ việc dân sự có trách nhiệm tiến hành hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Thẩm phán thực hiện hai nhiệm vụ chính khi tiến hành hòa giải, đó là: (1) phổ biến cho các đương sự về các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án; và (2) phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành cho các bên. Việc thỏa thuận giải quyết tranh chấp thuộc quyền chủ động của các bên.
– Hòa giải trong tố tụng được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Khác với các hình thức hòa giải khác, hòa giải tố trong tụng được tiến hành theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định về các vấn đề như thông báo hòa giải, nội dung hòa giải, thủ tục tiến hành hòa giải, lập biên bản hòa giải và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
– Khác với các trường hợp hòa giải khác, kết quả hòa giải trong tố tụng được Tòa án công nhận bằng quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, có hiệu lực pháp luật ngay và được thi hành theo pháp luật thi hành án dân sự.
Tính đến nay, tỷ lệ hòa giải thành trong giải quyết các vụ án dân sự của các Tòa án trung bình hàng năm đạt 50%. Số liệu này cho thấy sự thành công nhất định của công tác hòa giải trong tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại Tòa án cũng cho thấy, cơ chế hòa giải, đối thoại trong tố tụng hiện hành bộc lộ những hạn chế, bất cập, điển hình là hai vấn đề sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể tiến hành hòa giải, đối thoại: Thẩm phán là người tiến hành hòa giải, đối thoại đồng thời là người xét xử vụ việc nếu hòa giải, đối thoại không thành nên Thẩm phán bị ràng buộc bởi các quy định tố tụng, như phải xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định; việc hòa giải của Thẩm phán chỉ giới hạn ở việc phổ biến cho các đương sự về các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các đương sự liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, khó phát huy được vai trò tích cực trong việc đề xuất phương án hòa giải, đối thoại cho các bên. Mặt khác, đương sự thường có tâm lý thận trọng khi trình bày trước Thẩm phán vì lời trình bày của họ có thể là chứng cứ bất lợi với họ. Do vậy, những nguyên nhân mâu thuẫn, tranh chấp khó được giải quyết triệt để, từ đó hạn chế hiệu quả của việc hòa giải, đối thoại.
Thứ hai, về trình tự, thủ tục hòa giải: việc hòa giải, đối thoại được tiến hành bởi trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ và công khai tại trụ sở Tòa án và trong giờ hành chính, không phát huy được tính linh hoạt về thủ tục, thời gian, địa điểm và bảo mật thông tin trong hòa giải, đối thoại.
Trước tình trạng số lượng án ngày càng tăng mạnh về cả số lượng và mức độ phức tạp và trong bối cảnh tinh giản biên chế như đã trình bày thì việc đổi mới cơ chế hòa giải, đối thoại là giải pháp phù hợp mà Tòa án nhân dân tối cao đã đề ra.
2. Ý nghĩa và vai trò của hòa giải:
Trong suốt chiều dài lịch sử, hòa giải luôn là phương thức được lựa chọn để giải quyết các tranh chấp, đây là một trong những thiết chế truyền thống, phù hợp tâm lý và văn hóa của người Việt Nam. Quá trình phát triển đất nước cho thấy, hòa giải đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống. Với cách thức thân thiện và đồng thuận trên nguyên tắc chia sẻ, cảm thông góp phần hàn gắn mâu thuẫn và nâng cao ý thức pháp luật của người dân, ngăn ngừa tranh chấp xảy ra trong tương lai.
Hòa giải giúp giải quyết tranh chấp mà không cần mở phiên tòa xét xử, kết quả hòa giải phần lớn được tự nguyện thi hành do đạt được ý chí của các bên ; điều này giúp tiết kiệm chi phí, thời gian của các bên tranh chấp cũng như cơ quan nhà nước. Đối với Tòa án, việc tăng cường áp dụng hòa giải giúp giải quyết khối lượng công việc lớn, nặng nề trong bối cảnh số lượng các tranh chấp không ngừng tăng lên cả về số lượng và tính chất phức tạp.
Thứ nhất, đặc trưng cơ bản của hòa giải là bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên trong giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Vì vậy, hòa giải là phương thức để thực hiện dân chủ, thông qua hòa giải vai trò tự quản của người dân được tăng cường.
Thứ hai, hòa giải góp phần nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Trong quá trình hòa giải, các hòa giải viên sẽ vận dụng các quy định pháp luật khác để giải thích, hướng dẫn và thuyết phục các bên, giúp họ tự lựa chọn và dàn xếp ổn thỏa các mâu thuẫn, tranh chấp.
Thứ ba, giải quyết các mâu thuẫn kịp thời trong cộng đồng dân cư, hòa giải giúp khôi phục, duy trì, củng cố tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, đảm bảo an toàn xã hội. Giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải giữ cho quan hệ tốt đẹp giữa các bên được duy trì, giảm bớt các khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Thứ tư, hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Ngoài các quy định pháp luật được áp dụng trong quá trình hòa giải, những chuẩn mực đạo đức, văn hóa ứng xử, phong tục tập quán tốt đẹp sẽ có tác động tới tư duy của người dân.