Nội dung bảo đảm quyền bảo vệ của trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực về thể chất? Bảo đảm quyền bảo vệ của trẻ em khỏi bạo lực thể chất theo pháp luật quốc tế và Việt Nam?
Mục lục bài viết
1. Pháp luật quốc tế – Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ về quyền trẻ em năm 1924:
Quá trình công nghiệp hóa ở châu Âu (thế kỷ XVII – XIX) với sự khủng hoảng về lao động trong các công xưởng, hầm mỏ đã kéo theo tình trạng bóc lột sức lao động trẻ em một cách phổ biến. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất I (1914 – 1918) đã đẩy hàng triệu trẻ em vào hoàn cảnh cùng khổ. Từ năm 1919, một số tổ chức cứu trợ trẻ em đã được thành lập ở Anh và Thụy Điển, Italia. Những năm tiếp theo, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã ban hành một số công ước nhằm bảo vệ trẻ em trong các lĩnh vực lao động, việc làm và bảo trợ xã hội.
Đến năm 1924, khái niệm quyền trẻ em chính thức được đề cập trong luật pháp quốc tế, khi Tuyên ngôn Giơ–ne–vơ về quyền trẻ em được Hội Quốc Liên thông qua. Tại tuyên bố này, vấn đề quyền bảo vệ của trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực về thể chất được đề cập như: Trẻ em phải được phát triển một cách bình thường cả về thể chất và tinh thần, trong đời sống, trẻ em phải có quyền được kiếm sống và phải được bảo vệ chống lại mọi hình thức bóc lột
– Tuyên bố thứ hai của Liên hợp quốc về quyền trẻ em 1959
Trên cơ sở mở rộng, phát triển Tuyên ngôn Giơ–ne–vơ 1924 và đảm bảo thực hiện quyền trẻ em, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thống nhất thông qua bản Tuyên bố (thứ hai) về quyền trẻ em theo Nghị quyết số 1386 (XIV) ngày 20–22–1959, yêu cầu các tổ chức, các quốc gia thành viên đảm bảo thực hiện tất cả các quyền đối với trẻ em mà không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, quốc tịch hoặc thành phần xã hội, tài sản, nơi sinh hoặc các tình trạng khác dù của trẻ hay gia đình trẻ.
Tuyên bố thứ hai 1959 mở rộng nhiều quyền dành cho trẻ em hơn so với Tuyên bố Giơ–ne–vơ, đồng thời cũng quy định trách nhiệm đối với gia đình, xã hội, các cơ quan, tổ chức trong nỗ lực đảm bảo thực hiện các quyền trẻ em. Tuyên bố nêu ra một số nhóm quyền bảo vệ trẻ em như sau: trẻ em phải được chăm sóc đặc biệt, phải có cơ hội hoặc được tạo điều kiện để giúp trẻ em phát triển về thể chất, tinh thần, đạo đức và xã hội một cách bình thường và lành mạnh, trong điều kiện tự do và được tôn trọng nhân phẩm, trẻ em phải nhận sự bảo vệ và cứu giúp; trẻ em phải được bảo vệ chống lại mọi hình thức bỏ rơi, ngược đãi và bóc lột .
– Công ước về quyền trẻ em năm 1989
Có thể nói rằng, đây là nội dung xuyên suốt, là cơ sở pháp lý cho các quốc gia thành viên công ước tuân thủ và thực hiện quyền trẻ em tại mỗi quốc gia. Công ước quốc tế về quyền trẻ em đã được thông qua và ký kết ngày 20/11/1989, có hiệu lực từ ngày 2/9/1990. Cho tới nay, đã có 197 quốc gia thành viên tham gia Công ước này. Công ước để ngỏ cho các quốc gia tham gia ký kết, phê chuẩn và gia nhập. Ngoài lời nói đầu, nội dung của Công ước gồm 3 phần với 54 điều khoản, bao quát được tất cả những khía cạnh liên quan đến quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc đảm bảo quyền trẻ em, mối quan hệ giữa trẻ em và quyền con người nói chung. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới (sau Ga–na, 05/2/1990) phê chuẩn công ước.
Với bốn nguyên tắc xuyên suốt là: 1. Không phân biệt đối xử (Điều 2) 2. Bảo đảm quyền lợi tốt nhất của trẻ em (Điều 3) 3. Quyền được sống và phát triển của trẻ em (Điều 6) 4. Lắng nghe và tôn trọng ý kiến của trẻ em (Điều 12),
Công ước nêu rõ các quyền đối với trẻ em như sau: Quyền được sống và phát triển, quyền được bảo vệ chống lại sự lạm dụng và sao nhãng; quyền được chăm sóc và nhận sự giúp đỡ nhân đạo đối với trẻ em tị nạn; quyền được hưởng trạng thái sức khỏe cao nhất và các dịch vụ chữa bệnh phục hồi sức khỏe; quyền được hưởng an toàn xã hội; quyền có được mức sống đủ để phát triển thể chất, tinh thần, tâm thần, đạo đức và xã hội; quyền được bảo vệ khỏi bị bóc lột về kinh tế và không phải làm các công việc nguy hiểm, độc hại; quyền được bảo vệ chống việc sử dụng các chất ma túy và an thần, quyền được bảo vệ chống bị bắt cóc, cưỡng bức và lạm dụng về tình dục; quyền được bảo vệ chống buôn bán và bắt cóc; quyền được bảo vệ chống lại những hình thức bóc lột khác; quyền được đối xử nhân đạo khi bị giam giữ và không bị tra tấn và tước đoạt sự tự do; quyền không phải trực tiếp tham gia chiến sự khi chưa đến 15 tuổi và được bảo vệ, chăm sóc khỏi ảnh hưởng của xung đột vũ trang; quyền được chăm sóc phục hồi .
2. Một số văn kiện quốc tế khác liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em:
Bên cạnh Công ước quốc tế về quyền trẻ em là văn kiện quan trọng nhất, quy định một cách tổng quát, đầy đủ các quyền trẻ em, Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế cũng thông qua nhiều văn kiện điều chỉnh riêng biệt đối với một số quyền dành cho trẻ em, như:
– Tuyên bố về bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong tình trạng khẩn cấp và xung đột vũ trang 1974: Được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 4/12/1974, theo đó tuyên bố khẳng định phụ nữ và trẻ em cần được chăm sóc đặc biệt, Tuyên bố cũng kêu gọi các quốc gia cần tuân thủ và thực hiện một cách nghiêm túc quy định về việc cấm sử dụng vũ khí hóa học và vi khuẩn để mất mát nặng nề cho phụ nữ và trẻ em, việc bỏ tù, tra tấn, bắn giết, bắt bớ hàng loạt, trừng phạt tập thể, phá hủy nhà và bức đoạt nhà ở của phụ nữ và trẻ em phải được coi là tội phạm ...
– Công ước số 138 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu được đi làm việc, 1973.
– Tuyên bố của Hội nghị thế giới chống bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại, 1996.
– Chương trình hành động chống việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại, 1996.
– Công ước số 182 của ILO về việc cấm và những hành động tức thời để loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999.
– Khuyến nghị 190 của ILO về việc cấm và loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999.
3. Pháp luật trong nước:
– Hiến pháp Hiến pháp – đạo luật gốc, quy định về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các vấn đề lớn mang tầm quốc gia. Qua hơn 70 năm lịch sử lập hiến của đất nước, được ghi nhận bằng năm bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013). Trong Hiến pháp, trẻ em được xem là một công dân, hơn thế là một công dân đặc biệt. Vấn đề bảo vệ quyền trẻ em được điều chỉnh dưới góc độ quyền con người.
Hiến pháp 1946 ghi nhận:
Trẻ con được chăm săn sóc về mặt giáo dưỡng ; Nền sơ học cưỡng bách và không học phí ở các trường sơ học địa phương, quốc gia thiểu số có quyền học tiếng của mình, học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy học theo chương trình nhà nước . Hiến pháp 1959 ghi nhận:
Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đạo đức, trí dục, thể dục. Hiến pháp 1980 ghi nhận:
Nhà nước và xã hội chú trọng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng, mở rộng dần việc đảm nhiệm nuôi dạy trẻ em, làm cho sinh hoạt, học tập và trưởng thành của các em được bảo đảm; Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho thanh niên được học tập, lao động và giải trí, phát triển trí tuệ, năng khiếu và thể lực, chăm lo bồi dưỡng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và giáo dục đào tạo cách mạng cho thanh niên ...
Hiến pháp 1992 với hơn mười điều đề cập đến quyền của trẻ em đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này. Quyền trẻ em không còn là những quy định đơn lẻ mà xét về cơ cấu và nội dung thì vấn đề về quyền trẻ em đã thực sự trở thành một chế định pháp lý chặt chẽ. Theo Hiến pháp 1992, vấn đề quyền trẻ em được thiết kế, xây dựng trong mối quan hệ hữu cơ với chế định quyền công dân (Chương V. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân). Trong số 34 Điều (từ Điều 49 đến điều 82) của Chương này hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đều đề cập đến quyền trẻ em.
Hiến pháp 1992 cũng đã chỉ rõ, trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, của nhà nước và của toàn xã hội .
Kế thừa và phát triển tinh thần của các bản hiến pháp trước đây, Hiến pháp 2013 (Điều 34) một lần nữa khẳng định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được tham gia vào các vấn đề về trẻ em”. Đồng thời, Hiến pháp cũng quy định: “Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.
– Luật Quốc tịch được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008 là một trong những cơ sở pháp lý để thực hiện quyền được có quốc tịch, quyền được khai sinh của trẻ em. Theo đó luật đã xác định quốc tịch của một cá nhân là trạng thái pháp lý của cá nhân đó. Trẻ em với tư cách là một cá nhân, một công dân của Việt Nam nên quyền có quốc tịch là một trong những quyền cơ bản và thiêng liêng nhất của trẻ em. Quốc tịch cũng là căn cứ để trẻ em được hưởng sự bảo hộ pháp lý của nhà nước, một trong những điều kiện cơ bản để xác định tình trạng nhân thân của một con người từ khi sinh ra đến khi mất đi.
– Luật trẻ em năm 2016, sửa đổi bổ sung năm 2018
Luật trẻ em năm 2016, sửa đổi bổ sung năm 2018, quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi, quy định các quyền của trẻ em như quyền sống, quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được giáo dục học hành, quyền bí mật riêng tư, quyền được bảo vệ...; các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền của trẻ em; quy định về hành vi xâm hại trẻ em dưới các hình thức bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và các hình thức gây tổn hại khác, trách nhiệm của cơ quan tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và những người liên quan trong việc bảo đảm trong việc bảo đảm thực hiện các quyền trẻ em... .
– Pháp luật Hành chính
Pháp luật Hành chính cũng là một ngành luật góp phần vào việc bảo vệ quyền trẻ em dưới góc độ quản lý nhà nước. Trẻ em là một chủ thể của xã hội, cũng là đối tượng điều chỉnh của Pháp luật Hành chính. Mọi lĩnh vực trẻ em tham gia như học tập, vui chơi giải trí, thể dục, thể thao, khám, chữa bệnh đều chịu sự quản lý của Nhà nước, do đó có thể nói Pháp luật Hành chính tham gia điều chỉnh hầu hết các mối quan hệ của trẻ em trong xã hội, từ đảm bảo các quyền trẻ em. Đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật, pháp luật Hành chính cũng có nhiều quy định điều chỉnh mối quan hệ này. Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 (phần V dành đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính) gồm hai chương, 8 điều (Điều 133–138) quy định phạm vi áp dụng, nguyên tắc xử lý, áp dụng các biện pháp xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả, áp dụng, nguyên tắc xử lý, áp dụng các biện pháp xử phạt và biện pháp xử lý hành chính, thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên. Chương 2 phần thứ năm quy định các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính gồm nhắc nhở và quản lý tại gia đình – hai biện pháp đề cao việc định hướng giáo dục tư tưởng đối với người chưa thành niên vi phạm hơn là các biện pháp mang tính cưỡng chế . Bên cạnh đó, Nghị định số 144/2013/NĐ–CP ngày 29/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ chăm sóc trẻ em (Mục 2, từ điều 21–34) quy định các biện pháp hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
– Trên cơ sở Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bạo lực về thể chất với trẻ em trong các lĩnh vực như: an ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội, phòng chống bạo lực gia đình; bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em; công nghệ thông tin; văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo, giáo dục...
– Bộ luật Hình sự
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội. Người chưa thành niên là một chủ thể đặc biệt, pháp luật hình sự cũng có nhiều quy định dành riêng cho đối tượng này. Trong Bộ Luật Hình sự, vấn đề quyền trẻ em được đảm bảo ở hai góc độ: đối với người chưa thành niên phạm tội và phạm tội đối với trẻ em. Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định cụ thể các nguyên tắc, độ tuổi, các hình phạt áp dụng, các điều kiện về miễn, giảm chấp hành hình phạt... đối với người chưa thành niên, trẻ em phạm tội, đồng thời cũng quy định các hình phạt nghiêm khắc cho các hành vi phạm tội đối với trẻ em, đảm bảo quyền được bảo vệ của trẻ em.
Đối với lĩnh vực xử lý trẻ em phạm tội, Bộ luật đã quy định cụ thể về độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12) là “người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”, xác định sáu nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội theo hướng giảm nhẹ các hình phạt.
Bộ luật Hình sự hiện hành cũng dành 25 điều, khoản quy định các tội phạm với các mức hình phạt nghiêm khắc có liên quan đến các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em như: Tội giết người (Giết phụ nữ mà biết đang có thai, giết trẻ em) (Điều 123); tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác (đối với trẻ em) (Điều 134), tội hành hạ người khác (Điều 140), tội hiếp dâm trẻ em (Điều 141, Điều 142), tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 143, Điều 144), tội giao cấu với trẻ em (Điều 145), tội dâm ô với trẻ em (Điều 146)...
Bộ Luật Hình sự 2015 (BLHS), sửa đổi bổ sung 2017 quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, trong đó có trẻ em, đồng thời sửa đổi, bổ sung nhóm tội có tính đặc thù xâm hại tình dục trẻ em theo hướng: Sửa đổi cấu thành tội phạm để xử lý đúng bản chất của một số hành vi phạm tội; cụ thể hóa các hành vi xâm hại trẻ em để tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn; tội phạm hóa một số hành vi xâm hại tình dục trẻ em phát sinh trong thời gian qua. Đồng thời, để xử lý nghiêm các hành vi khác xâm hại trẻ em, Bộ luật Hình sự quy định chi tiết “phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự trong một số tội danh như: Tội giết người, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác, Tội cưỡng bức lao động, Tội chứa mại dâm, Tội môi giới mại dâm...
Để áp dụng thống nhất pháp luật, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành các nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất một số quy định của pháp luật về Tội mua bán người dưới 16 tuổi và một số tội về xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi .
– Bộ luật Tố tụng Hình sự
Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định một chương riêng về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Trong đó, quy định nguyên tắc tiến hành tố tụng phải đảm bảo thủ tục thân thiện, nhằm bảo vệ tốt nhất lợi ích cho trẻ em trong quá trình tố tụng .
Để tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công An, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư liên tịch quy định trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình tiến hành tố tụng đối với các vụ án có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 02/2018/TT–TANDTC ngày 21/9/2018 “Quy định chi tiết việc xét xử các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên”.
– Bộ Luật Dân sự
Bộ Luật Dân sự năm 2015 đã xây dựng cơ chế bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em thông qua quy định cụ thể về người chưa thành niên. Quy định năng lực hành vi dân sự của người dưới 18 tuổi; giao dịch dân sự của trẻ em chưa đủ 06 tuổi phải do người đại diện theo pháp luật của trẻ em xác lập, thực hiện; quyền bí mật đời tư; người giám hộ cho người chưa thành niên; đại diện cho người chưa thành niên trong giao dịch dân sự; giá trị pháp lý của giao dịch dân sự do người chưa thành niên xác lập và những trường hợp giao dịch dân sự có hiệu lực hoặc vô hiệu lực; quyền thừa kế tài sản của người con chưa thành niên... .
– Bộ luật Lao động
Bộ luật Lao động năm 2019 điều chỉnh các quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động, pháp điển hóa các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động. Bộ luật Lao động coi trẻ em là một đối tượng đặc biệt nằm trong nhóm lao động đặc thù (Lao động chưa thành niên). Trong Bộ luật Lao động, dành riêng Mục 1 Chương XI các quy định đối với lao động chưa thành niên đã quy định một cách đầy đủ, cụ thể về khái niệm người lao động, người lao động chưa thành niên, theo đó, người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động có giao kết hợp đồng lao động, người chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi. Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn cũng quy định về nguyên tắc sử dụng lao động chưa thành niên cần phải tuân thủ quy định nghiêm cấm mọi hành vi bóc lột, lạm dụng sức lao động của người lao động chưa thành niên, quy định chặt chẽ về việc không được sử dụng lao động dưới 15 tuổi làm các công việc thuộc danh mục 93 loại công việc nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm và các nơi làm việc có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển của người chưa thành niên, quy định các ngành nghề được phép sử dụng lao động đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi, các quy định về điều kiện giao kết hợp đồng, đảm bảo thời gian học tập, khám sức khỏe định kỳ, về thời gian làm việc đối với lao động chưa thành niên. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc sử dụng lao động đối với lao động chưa thành niên, nhằm đảm bảo quyền được làm việc của trẻ em được quy định trong pháp luật nước ta .
– Luật về trợ giúp pháp lý
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý đối với tất cả trẻ em. Theo đó, trẻ em có quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí. Hình thức trợ giúp pháp lý đối với trẻ em bị xâm hại gồm: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng. Để triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 08/2017/TT–BTP ngày 15/11/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ chứng minh là trẻ em khi yêu cầu trợ giúp pháp lý; đồng thời Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan ban hành Thông tư số 10/2018/TTLT–BTP–BCA–BQP–BTC–TANDTC–VKSNDTC quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng.
Quốc hội còn ban hành nhiều đạo luật, trong đó có nhiều quy định bảo vệ trẻ em và phòng ngừa bạo lực về thể chất với trẻ em như: Luật Giáo dục (sửa đổi), Luật Báo chí, Luật tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng, Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá, Luật phòng chống tác hại của rượu bia...
Có thể thấy rằng, tất cả các ngành luật trong hệ thống pháp luật, đều dành cho trẻ em những quy định rất đặc thù theo hướng đảm bảo những điều tốt đẹp nhất cho trẻ em. Điều này xuất phát từ đặc điểm riêng về độ tuổi cũng như sự phát triển chưa đầy đủ về thể chất, tinh thần của trẻ em. Điều này cũng là minh chứng thể hiện đường lối, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em, hướng tới đảm bảo cho trẻ em một môi trường pháp lý đầy đủ, lành mạnh để phát triển.