Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự với mục đích để bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả hay đền bù các tổn thất cho người bị xâm phạm về quyền của họ. Vậy đối với các trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì phải bồi thường thiệt hại như thế nào?
Mục lục bài viết
- 1 1. Phòng vệ chính đáng là gì?
- 2 2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:
- 3 3. Chủ thể phải bồi thường thiệt hại khi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:
- 4 4. Mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:
1. Phòng vệ chính đáng là gì?
Theo quy định tại Điều 22
Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Như vậy, Dựa trên quy định chúng tôi nêu ra ở trên thì phòng vệ chính đáng là hành vi hợp pháp của cá nhân, chống trả lại một cách cần thiết và trong giới hạn đối với người đang có hành vi xâm phạm lợi ích của chính bản thân họ hoặc lợi ích chính đáng của nhà nước hay chủ thể khác. Phòng vệ chính đáng được xác định không phải là tội phạm. Trường hợp hành vi chống trả lại vượt quá giới hạn nêu trên thì được coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Nếu gây thiệt hại thì có thể chịu trách nhiệm bồi thường.
2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:
Tại Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Theo đó căn cứ từ trên quy định này có thể thấy nếu áp dụng trong trường hợp người phòng vệ chính đáng gây thiệt hại mà thiệt hại đó là hậu quả của hành vi “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” thì người này phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 594
3. Chủ thể phải bồi thường thiệt hại khi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:
Tại Điều 594. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
“Người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường cho người bị thiệt hại.”
Như vậy người nào mà có hành vi gây thiệt hại do vượt quá phòng vệ chính đáng sẽ phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên không phải lúc nào người gây thiệt hại sẽ là người phải bồi thường. Việc xác định chủ thể sẽ phải bồi thường thiệt hại còn phải căn cứ vào năng lực chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
4. Mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:
Căn cứ dựa trên quy định của pháp luật tại khoản 1 điều 585 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc bồi thường sẽ phải dựa theo các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc thứ nhất đó là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
+ Nguyên tắc thứ hai đó là khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
+ Nguyên tắc thứ ba đó là khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
Nguyên tắc thứ tư đó là về bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
Theo đó, pháp luật quy định về mức bồi thường thiệt hại như sau:
Nếu có thiệt hại về sức khỏe thì người gây thiệt hại sẽ phải bồi thường về sức khỏe theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
Theo quy định đó có thể thấy mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Nếu có thiệt hại về tính mạnh thì người gây thiệt hại sẽ phải bồi thường theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
Theo quy định như trên chúng ta có thể đưa ra một số ý kiến đó là khi tính mạng bị xâm phạm do các hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng gây ra thì thiệt hại tinh thần sẽ được xác định dựa trên quy định của pháp luật và người bị thiệt hại được một khoản tiền bồi thường khác để có thể bù đắp về những tổn thương đó. Theo quy định thì mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên tự thỏa thuận. Tuy nhiên, nếu các bên không thỏa thuận được thì đối với trường hợp tính mạng bị xâm phạm thì mức bồi thường tổn thất về tinh thần tối đa không quá 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (khoản 2 Điều 591 bộ luật dân sự 2015); đối với trường hợp sức khỏe bị xâm phạm thì mức bồi thường tổn thất về tinh thần tối đa không quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (khoản 2 Điều 590 bộ luật dân sự 2015).
Ngoài ra theo những quy định khác mà pháp luật ban hành ra đối với việc xác định chi phí mai táng có thể nói đây là một vấn đề không đơn giản bởi như chúng ta đã biết thì tùy vào mỗi địa phương, vùng miền trên đất nước đều có những phong tục, tập quán riêng. Đó được coi là một trong những nét đặc trưng riêng của từng địa phương và được Nhà nước tôn trọng.
Bên cạnh đó, đối với tính mạng bị xâm phạm, mức bồi thường tổn thất tinh thần hiện nay là 100 tháng lương cơ sở theo quy định của pháp luật. Chúng ta có thể thấy mức bồi thường này vẫn còn thấp khi đặt trong một số trường hợp cụ thể, ví dụ như: bị hại là con duy nhất trong gia đình; bị hại là con trai duy nhất trong dòng họ; bị hại là người trẻ tuổi;… Hơn nữa, Khoản 4 Điều 27 của
Như vậy có thể thấy đối với mức tối thiểu đối với khoản tiền bồi thường tổn thất tinh thần do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng gây ảnh hưởng tới tính mạng bị xâm phạm hiện nay chưa có quy định cụ thể. Bên cạnh đó để phù hợp với mức bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm, Chúng tôi đưa ra quan điểm đó là cần quy định mức bồi thường tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm trên mức tối đa của bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm và theo quy định đó thì vân đề giải quyết bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm là vấn đề quan trọng nhằm kịp thời bù đắp những thiệt hại cho bị hại hoặc người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bị hại do hành vi vi phạm pháp luật của người khác gây ra.
Cơ sở pháp lý:
– Bộ Luật dân sự 2015