Đánh đập, đe dọa yêu cầu trả nợ thì có vi phạm không? Hành vi cưỡng đoạt tài sản, đe dọa, xúc phạm danh dự nhân phẩm.
Đánh đập, đe dọa yêu cầu trả nợ thì có vi phạm không? Hành vi cưỡng đoạt tài sản, đe dọa, xúc phạm danh dự nhân phẩm.
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi và cô A làm cùng cơ quan. Chồng tôi kinh doanh có vay tiền của cô A (hai bên cùng có lợi có giấy viết tay chữ kí cả 2 vợ chồng).Do làm ăn thua lỗ bị phá sản mất hết tất cả nên chưa có tiền trả cô A. Chúng tôi đến khất xin tiền lãi, gốc sẽ trả dần hàng tháng. Cô A không chấp nhận đã dẫn theo 1 nhóm người chặn đường tôi đi làm về nói sẽ ủy quyền số nợ trên cho nhóm người này đòi rồi ra về.Họ đã lăng mạ, chửi bới, đánh đập (không gây thương tích) ép tôi phải trả tiền cho họ và đe dọa đến cuộc sống của tôi. Tôi bị xúc phạm rất sợ hãi, tinh thần hoảng loạn không kêu lên được. Vậy cô A và nhóm người kia có phạm tội không, họ sẽ bị xử lí thế nào nếu tôi viết đơn trình báo công an?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý
2. Nội dung tư vấn
– Tại Điều 34 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín như sau:
“Điều 34. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.
4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.
5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại”.
– Tại Điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về việc bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm như sau:
“Điều 592. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.
– Tại điểm a khoản 1 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP còn quy định về việc xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác sẽ bị xử phạt theo Nghị định như sau:
“1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác”.
– Ngoài ra, trong trường hợp những người này có hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội làm nhục người khác như sau:
"Điều 121. Tội làm nhục người khác
1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều người;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Đối với người thi hành công vụ;
đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm".
– Tại Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định về tội cưỡng đoạt tài sản như sau:
“Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”.
Hành vi của những người này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản.
Trong trường hợp của bạn, bạn xét thấy rằng những người này có hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 121, 135 Bộ luật hình sự năm 1999 Tại Điều 101 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về tố giác tội phạm như sau:
"Điều 101. Tố giác và tin báo về tội phạm
Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác.
Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản”.
>>> Luật sư tư vấn về hành vi cưỡng đoạt tài sản qua tổng đài: 1900.6568
Căn cứ vào quy định này thì nếu phát hiện ra người nào đó có hành vi phạm tội thì người phát hiện có quyền tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức.
Như vậy, trong trường hợp của bạn những người này lăng mạ, chửi bới, đánh đập (không gây thương tích) ép bạn phải trả tiền cho họ và đe dọa đến cuộc sống của bạn thì bạn có thể trình báo đến cơ quan Công an địa phương của bạn để được bảo vệ quyền lợi cho mình.