Tố cáo hành vi đe dọa và xúc phạm danh dự nhân phẩm người khác. Tố giác tội phạm, trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm người khác.
Tố cáo hành vi đe dọa và xúc phạm danh dự nhân phẩm người khác. Tố giác tội phạm, trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm người khác.
Tóm tắt câu hỏi:
Có người gửi clip gọi thoại đe dọa đòi cho giang hồ chém chết em. Phá hoại tài sản của em, làm nhục nhân phẩm. Vậy em có làm đơn thưa được không? Và thưa ở đâu? em cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
2. Giải quyết vấn đề:
Tại Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định như sau:
“Điều 103. Tội đe dọa giết người
1. Người nào đe doạ giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe doạ lo sợ rằng việc đe doạ này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Đối với nhiều người;
b) Đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
c) Đối với trẻ em;
d) Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác”.
Căn cứ vào quy định này thì để cấu thành tội đe dọa giết người thì cần phải có các dấu hiệu pháp lý sau:
– Đối tượng bị hại ở đây là tính mạng con người
– Là hành vi đe dọa giết người (hành vi đe dọa tước đoạt tính mạng của người khác trái pháp luật).
+ Thông tin đe dọa giết người có thể chuyển đến nạn nhân bằng bất kỳ hình thức nào như bằng lời nói trực tiếp, qua thư, điện thoại, băng hành động…
+ Sự lo sợ được coi là căn cứ khi cách thức và nội dung đe dọa thể hiện rõ ý định giết người đồng thời làm cho nạn nhân hiểu rằng chủ thể hoàn toàn có đủ điều kiện, động cơ để thực hiện hành vi đó.
– Lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp.
– Người thực hiện hành vi là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ 16 trở lên.
Tại Điều 143 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tội hủy hoại tài sản như sau:
"Điều 143. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Để che giấu tội phạm khác;
đ) Vì lý do công vụ của người bị hại;
e) Tái phạm nguy hiểm;
g) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
Căn cứ vào quy định này thì các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản như sau:
– Tài sản bị hủy hoại, hư hỏng: Tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng do người phạm tội thực hiện phải là tài sản của người khác, đó có thể là của: cá nhân, tổ chức hoặc Nhà nước.
– Hành vi phạm tội:
+ Hành vi hủy hoại tài sản: Là hành vi làm cho tài sản mất hẳn giá trị sử dụng; không thể khôi phục lại được hoặc khó có thể khôi phục lại được.
Hành vi này có thể được thực hiện dưới dạng: hành đồng (đập, đốt, phá,..) và không hành động (không bảo dưỡng máy móc theo định kỳ). Hành vi có thể được người phạm tội thực hiện bằng các hình thưc, công cụ, phương tiện khác nhau (dùng dao, búa, gậy, hóa chất,…)
+ Hành vi làm hư hỏng tài sản: Hành vi này có tính chất gần giống với hành vi làm hủy hoại tài sản.
Người phạm tội cố ý làm giảm đi một phần giá trị sử dụng của tài sản và tài sản đó có thể được khôi phục lại (một phần hoặc như cũ).
– Hậu quả của hành vi:
Tội phạm này được cấu thành vật chất, có nghĩa là: Hậu quả của hành vi là yếu tố bắt buộc để tội phạm được cấu thành. Trong trường hợp này, tài sản bị xâm phạm phải bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng với giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Ngoài ra tại điểm a khoản 2 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình quy định về mức phạt đối với hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác chưa đến mức bị truy trách nhiệm hình sự sẽ bị xử phạt hành chính: Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác.
– Chủ thể thực hiện hành vi, người thực hiện phải có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên: Bị truy cứu trách nhiệm hình sự mọi trường hợp với mọi khung hình phạt quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
+ Người từ đủ 14 tuối tới dưới 16 tuổi: Chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp quy định tại khoản 3,4 tại Điều 143 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
– Lỗi, mục đích và động cơ thực hiện.
Lỗi của người thực hiện hành vi vi phạm tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản phải là lỗi cố ý:
+ Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra;
+ Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Đối với yếu tố mục đích, động cơ thực hiện thì không là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm này.
Tại Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội làm nhục người khác như sau:
"Điều 121. Tội làm nhục người khác
1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều người;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Đối với người thi hành công vụ;
đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm".
Căn cứ quy định này, người nào có hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999.
>>> Luật sư tư vấn tố cáo hành vi đe dọa, xúc phạm người khác: 1900.6568
Tại Điều 101 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về tố giác tội phạm như sau:
"Điều 101. Tố giác và tin báo về tội phạm
Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác.
Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản”.
Căn cứ vào quy định này thì nếu phát hiện ra người nào đó có hành vi phạm tội thì người phát hiện có quyền tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức.
Như vậy, đối chiếu với trường hợp của bạn, nếu như người kia có hành vi đe dọa giết người như chúng tôi đã phân tích trên và còn có hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của bạn, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của bạn thì bạn có quyền làm đơn tố giác gửi đến cơ quan Công an.