Sử dụng các phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn. Trách nhiệm hành vi sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không an toàn.
Đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn là hành vi của người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật mà cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt rõ ràng không đảm bảo an toàn kỹ thuật gây thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
Điều 210 Bộ luật hình sự quy định Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn như sau:
“1. Người nào chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật của phương tiện giao thông đường sắt mà cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt rõ ràng không bảo đảm an toàn gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
1. Dấu hiệu pháp lý
a) Chủ thế của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật về phương tiện giao thông đường sắt mới là chủ thể của tội phạm này.
Nếu hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn chưa gây thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản cho người khác, thì người phạm tội phải là người đã bị xử lý kỷ luật về hành vi đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn mà còn vi phạm, thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đây là là quy định khác với các tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn, vì hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn được coi là nghiêm trọng hơn hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn. Tuy chưa gây thiệt hại nhưng đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm thì vẫn bị coi là tội phạm.
b) Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm này là trật tự an toàn giao thông đường sắt.
Đối tượng tác động của tội phạm này là phương tiện giao thông đường sắt bao gồm: Đầu máy, toa xe và các thiết bị chuyên dùng hoạt động trên đường sắt.
c) Mặt chủ quan của tội phạm
Người thực hiện hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn là do vô ý (vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả, nhưng chủ yếu là vô ý vì quá tự tin).
Về nhận thức của người phạm tội trước khi thực hiện hành vi cho đưa vào phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn họ phải biết rõ là phương tiện đó không bảo đảm an toàn.
Nếu vì lý do nào đó mà họ không biết hoặc không thể biết thì cũng chưa cấu thành tội phạm. Đây là quy định về lý luận, có ý kién cho rằng đối với tội phạm này người phạm tội thực hiện hành vi do cố ý, vì đã biết rõ là phương tiện không bảo đảm an toàn mà vẫn cho đưa vào sử dụng. Có thể nói người phạm tội cố ý thực hiện hành vi nhưng không mong muốn cho hậu quả xẩy ra nên cũng không thoả mãn các dấu hiệu về cố ý phạm tội.
d) Mặt khách quan của tội phạm
Người phạm tội này chỉ thực hiện một hành vi khách quan đó là cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt rõ ràng không bảo đảm an toàn.
Hành vi cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt bằng nhiều hình thức khác nhau như: Bằng miệng, bằng văn bản hoặc bằng những hình thức khác cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt.
Nếu là người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động phương tiện giao thông đường sắt thì hành vi khách quan của họ là hành vi điều động phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn.
Nếu là người chịu trách nhiệm trực tiếp về tình trạng kỹ thuật phương tiện giao thông đường sắt, thì hành vi khách quan của họ là chứng nhận không đúng về tình trạng kỹ thuật của phương tiện giao thông đường sắt.
e) Hậu quả
Khác với các tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông khác, hậu quả do hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn, vừa là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này vừa không phải là dấu hiệu bắt buộc.
Là dấu hiệu bắt buộc, nếu người phạm tội chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn.
Ngược lại, nếu người phạm tội đã bị xử lý kỷ luật về hành vi đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn thì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
Hậu quả của hành vi đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn là thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác.
2. Hình phạt
Có ba khung hình phạt khi phạm tội này như sau:
Khung một: phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.
Khung hai: phạt tù từ ba năm đến mười năm.
Khung ba: phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.