Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác.
Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có quan hệ mật thiết với nhau trong một chỉnh thể thống nhất theo nghĩa có sự ràng buộc qua lại giữa nguyên tắc về nội dung và yêu cầu thực hiện những nội dung đó. Do đó, khi giải thích và áp dụng, cần phải xem xét từng nguyên tắc trong mối quan hệ với các nguyên tắc khác. Một trong số những nguyên tắc cơ bản khi áp dụng cần phải tuân thủ đó là nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Vậy nguyên tắc này được giải thích như thế nào.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái niệm về nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế:
- 2 2. Sự hình thành nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác:
- 3 3. Nội dung nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác:
- 4 4. Ngoại lệ của nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác:
1. Khái niệm về nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế:
Nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được hiểu là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm , có giá trị bắt buộc chung đối với mọi chủ thể luật quốc tế. Trong luật quốc tế, các nguyên tắc cơ bản được tồn tại dưới dạng những quy phạm bắt buộc chung được ghi nhận ở điều ước quốc tế và tập quán quốc tế. Không một chủ thể hay nhóm chủ thể khác của quan hệ quốc tế có quyền hủy bỏ nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, bất kỳ hành vi đơn phương nào không tuân thủ triệt để nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế đều bị coi là sự vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế.
Nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được đưa ra để thực hiện hai chức năng quan trọng đó là ổn định quan hệ quốc tế và ấn định khuôn khổ xử sự cho các chủ thể trong quan hệ quốc tế, qua đó tạo điều kiện cho quan hệ quốc tế phát triển.
Nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là chuẩn mực để xác định tính hợp pháp của toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp lý quốc tế. Các nguyên tắc cơ bản thậm chí còn tác động đến cả những lĩnh vực quan hệ của các chủ thể mà chưa được quy phạm cụ thể điều chỉnh. Nguyên tắc cơ bản chính là cơ sở của trật tự pháp lý quốc tế.
2. Sự hình thành nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác:
– Xuất hiện trong thời kỳ cách mạng tư sản, với “mầm mống” là quy định trong bản Hiến pháp của Nhà nước tư sản Pháp, đó là “nước Pháp không can thiệp vào các công việc nội bộ của quốc gia khác và không cam chịu để các quốc gia khác can thiệp vào công việc nội bộ của mình”. Tuy nhiên, những quy định liên quan đến vấn đề này thời kỳ đó còn rất nhiều hạn chế, chưa được thừa nhận rộng rãi là nguyên tắc chung của cộng đồng quốc tế.
– Khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời, Hiến chương của tổ chức này đã cụ thể hóa nội dung của nguyên tắc tại khoản 7 điều 2, ” Tổ chức Liên hợp quốc không có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất kì quốc gia nào” . Nghĩa vụ không can thiệp vào công việc của quốc gia khác cũng đồng thời nghĩa vụ này cũng được đặt ra cho tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế.
– Dưới tác động mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, trong khuôn khổ Liên hợp quốc, Nghị quyết về nguyên tắc “không can thiệp vào công việc nội bộ” được thông qua năm 1965 với việc “tuyên bố cấm can thiệp vào công việc nội bộ, bảo vệ độc lập và chủ quyền của các quốc gia”. Đến nay, nguyên tắc này còn được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng khác như: Tuyên bố của liên hợp quốc về trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa năm 1960, Tuyến bố cuối cùng của hội nghị các nước Á Phi năm 1955 tại Băng-đung, Định ước Henxinki năm 1975, Hiệp ước Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, Hiệp định Pari năm 1973 về lập lại hòa bình tại Việt nam…
3. Nội dung nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác:
- Về khái niệm “công việc nội bộ” của mỗi quốc gia:
Công việc nội bộ của mỗi quốc gia được hiểu là công việc nằm trong thẩm quyền giải quyết của mỗi quốc gia độc lập xuất phát từ chủ quyền của mình, đó là quyền tối thượng của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình (như: quyền tự do lựa chọn, tự do xây dựn và phát triển chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội phù hợp với nguyện vọng của nhân dân; quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp…) và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế (như: quyền độc lập thiết lập mối quan hệ với bất kỳ quốc gia nào, quyên tự do tham gia vào các tổ chức quốc tế khu vực và phổ cập…).
Từ những quy định của các văn kiện pháp lý quốc tế có thể thấy công việc thuộc thẩm quyền nội bộ của quốc gia là các phương diện hoạt động chủ yếu của Nhà nước dựa trên cơ sở của chủ quyền quốc gia, bao gồm toàn bộ những hoạt động mang tính chất đối nội, đối ngoại của quốc gia và được tiến hành phù hợp với luật quốc gia cũng như luật quốc tế, chẳng hạn các công việc như:
– Việc lựa chọn và tiến hành đường lối chính trị và các chính sách kinh tế- văn hóa- xã hội để phát triển đất nước
-Việc thực hiện đường lối chính sách đối ngoại của nhà nước và thiết lập quan hệ hợp tác với các chủ thể của luật quốc tế
-Việc xây dựng và duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước
-Việc quản lý điều hành hoạt động của xã hội tuân theo quy định của pháp luật quốc gia.
- Thế nào là can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác?
Việc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác được thực hiện theo 2 cách là can thiệp trực tiếp và can thiệp gián tiếp.
– Can thiệp trực tiếp là việc một (hoặc một nhóm) quốc gia dùng áp lực quân sự, chính trị, kinh tế…và các biện pháp khác nhằm khống chế quốc gia khác trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền nhằm ép buộc quốc gia đó phụ thuộc vào mình.
– Can thiệp gián tiếp là các biện pháp quân sự, kinh tế…do quốc gia tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm vào mục đích lật đổ chính quyền hợp pháp của quốc gia khác hoặc gây mất ổn định cho tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của nước này.
Ví dụ: hành vi giúp đỡ tài chính, cung cấp vũ khí, huấn luyện đào tạo các băng đảng vũ trang nhằm lật đổ chính quyền của quốc gia khác.
- Nội dung của nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác:
Nguyên tắc này không cho phép bất kỳ quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù văn minh hay lạc hậu được quyền can thiệp vào các lĩnh vực thuộc thẩm quyền riêng biệt của mỗi quốc gia, xuất phát từ chủ quyền của mình. Cụ thể:
– Cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe dọa can thiệp khác nhằm chống lại chủ quyền, nền tảng chính trị, văn hóa-xã hội của quốc gia;
– Cấm dùng các biện pháp kinh tế, chính trị và các biện pháp khác để bắt buộc quốc gia khác phụ thuộc vào mình;
– Cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ chính quyền của quốc gia khác;
– Cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ của quốc gia khác;
Luật sư
– Tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự do lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội không có sự can thiệp từ phía các quốc gia khác.
Về nguyên tắc, luật quốc tế không điều chỉnh các vấn đề thuộc nội bộ quốc gia. Do đó, bất kỳ biện pháp nào mà các quốc gia hay tổ chức quốc tế sử dụng để cản trở chủ thể của luật quốc tế giải quyết những công việc thuộc thẩm quyền nội bộ của mình đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế. Tuy nhiên,cũng có một ngoại lệ của nguyên tắc này là theo quy định của Hiến chương, Liên hợp quốc cũng có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong trường hợp có đe dọa hòa bình hoặc hành động xâm lược. Như vậy, nếu Hội đồng bản an Liên hợp quốc xác định một sự biến nào đó xảy ra trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia mà đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế thì sự biến đó không còn thuần túy là công việc nội bộ của quốc gia đó nữa và hành động của Liên hợp quốc trong trường hợp này không được coi là biện pháp can thiệp vào công việc riêng, công việc nội bộ của quốc gia
4. Ngoại lệ của nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác:
Hiện nay, do quá trình toàn cầu diễn ra ngày càng mạnh mẽ nên ranh giới giữa công việc nội bộ thuộc thẩm quyền mỗi quốc gia và công việc có sự tham gia của cộng đồng quốc tế trong nhiều trường hợp không độc lập hoàn toàn với nhau mà có sự đan xen nhất định (Ví dụ: vấn đề nhân quyền, nhân đạo, môi trường…). Về nguyên tắc, Luật quốc tế không điều chỉnh những vấn đề thuộc thẩm quyền nội bộ của mỗi quốc gia. Do đó, mọi biện pháp được sử dụng nhằm cản trở việc thực hiện công việc nội bộ của quốc gia đều bị coi là vi phạm Luật quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế, các chủ thể Luật quốc tế lại thừa nhận việc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác trong các trường hợp sau:
Khi có xung đột vũ trang xảy ra trong nội bộ của quốc gia: về nguyên tắc, vì cộng đồng quốc tế sẽ không có quyền can thiệp. Tuy nhiên, nếu cuộc xung đột này đạt đến mức độ nghiêm trọng, và có thể gây ra mất ổn định trong khu vực, đe dọa hoà bình và an ninh quốc tế, thì cộng đồng quốc tế – thông qua Hội đồng bảo an Liên hợp quốc – được quyền can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào cuộc xung đột hành động này không bị coi là vi phạm nội dung của nguyên tắc “không can này thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác”.
Khi có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình và an ninh quốc tế.
Ví dụ: Nam Phi cũ: việc thiết lập chủ nghĩa phân biệt – Đây là công việc nội bộ của Nam Phi. Tuy nhiên, việc phân biệt “chủng tộc Apacthai hiện chính sách phân biệt chủng tộc, thực hiện tội ác diệt chủng là vô cùng dã Cộng đồng quốc”man, vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế về quyền con người tế đã lên tiếng và áp dụng các biện pháp cần thiết để “can thiệp” phù hợp và ngăn cản chính sách này của Nam Phi. Có sự thỏa thuận của các bên liên quan.