Ngoài những quyền và nghĩa vụ riêng có của từng đối tượng thì bị can, bị cáo đều có chung các quyền và nghĩa vụ khi ở các giai đoạn khác nhau.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) thì “bị can là người đã bị khởi tố về hình sự”.
Khoản 1 Điều 50 BLTTHS 2003 quy định: “bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”.
Bị can hay bị cáo chỉ là các tên gọi khác nhau của cùng một người khi ở các giai đoạn tố tụng khác nhau. Do vậy, ngoài những quyền và nghĩa vụ riêng có của từng đối tượng thì họ đều có chung các quyền và nghĩa vụ khi ở các giai đoạn khác nhau.
Các quyền và nghĩa vụ chung của bị can, bị cáo đó là:
Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ: pháp luật đã quy định trách nhiệm của người tiến hành tố tụng khi áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người, tạm giữ và tạm giam đều phải giải thích cho đối tượng bị áp dụng các quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Trong các văn bản áp dụng pháp luật tố tụng hình sự (các lệnh bắt, luyết định tạm giữ hay lệnh tạm giam) đều phải đọc, giải thích rõ cho đối tượng; trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ tội danh, điều khoản luật được áp dụng đối với bị can; trong phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo trong thủ tục bắt đầu phiên tòa. Việc đảm bảo quyền này của bị can, bị cáo có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo; giúp họ hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình cũng như cũng như góp phần nhanh chóng kịp thời giải quyết vụ án, xác minh sự thật vụ án.
Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu: Theo quy định tại BLTTHS năm 1988 thì bị can, bị cáo có quyền đưa ra “chứng cứ và những yêu cầu”. còn theo quy định mới của BLTTHS 2003 thì bị can, bị cáo có quyền đưa ra “ tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Như vậy đã có sự thay đổi trong quy định của pháp luật từ việc bị can, bị cáo có quyền đưa ra chứng cứ thì nay chuyển thành những tài liệu, đồ vật. Sự thay đổi này trong quy định của pháp luật là hoàn toàn hợp lý, góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật nước ta. Bởi vì khi bị can, bị cáo cung cấp cho Cơ quan điều tra những tài liệu, đồ vật thì không phải mọi tài liệu đồ vật đó đều là chứng cứ trong vụ án. Khi Cơ quan điều tra nhận được các tài liệu, đồ vật đó thì họ phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các tài liệu đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không. Và chỉ khi các tài liệu đồ vật đó đáp ứng được các yêu cầu theo quy định của pháp luật thì chúng mới trở thành chứng cứ trong vụ án.
Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo yêu cầu của Bộ luật này (BLTTHS): bị can, bị cáo có quyền đề nghị thay đổi những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ không thể vô tư trong khi làm nhiệm vụ và việc họ tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng có thể làm cho vụ án được giải quyết theo hướng không có lợi cho bị can, bị cáo. Khi các Cơ quan tiến hành tố tụng nhận được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch của bị can thì cần phải xem xét, giải quyết yêu cầu đó nếu thấy yêu cầu là có căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự (quy định cụ thể tại Điều 42 BLTTHS về những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng). Đây là sự thể hiện nguyên tắc cơ bản trong hoạt động TTHS: “bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng” (Điều 14 BLTTHS).
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa: quyền bào chữa là một tổng thể các quyền và những biện pháp tố tụng cần thiết đảm bảo cho bị can, bị cáo tích cực tham gia TTHS; có khả năng thực tế để bày tỏ thái độ của mình đối với việc buộc tội; lưu ý các cơ quan tiến hành tố tụng về những tình tiết này hay tình tiết khác của vụ án; khả năng nêu ra những tình tiết minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho bị can, bị cáo. Quyền bào chữa được hiến pháp quy định và là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS. Theo quy định của BLTTHS, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, do hạn chế về kiến thức pháp luật, kỹ năng bào chữa và có thể đang bị giam giữ nên họ không thể thực hiện được việc tự bào chữa có hiệu quả. Họ cần có người khác có khả năng để bào chữa, do đó, bên cạnh quyền tự bào chữa, pháp luật đã quy định họ có quyền nhờ luật sư, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân bào chữa cho mình. Những người này sẽ tham gia TTHS để nhằm bác bỏ toàn bộ hoặc một phần sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa là quyền của bị can và bị cáo, không phải là nghĩa vụ của họ. Do vậy, bên cạnh việc quy định các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn luật sư phân công luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo thì cũng quy định quyền của những người này và người đại diện hợp pháp của họ được yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa (khoản 2 Điều 57 BLTTHS)
Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: không phải trong mọi trường hợp mọi quyết định và hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng đều đúng theo quy định của pháp luật. Do vậy, để đảm bảo thực hiện tốt các quy định của pháp luật cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo thì pháp luật đã cho phép bị can, bị cáo có quyền khiếu nại các quyết định và hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng lên các chủ thể có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải xem xét và giải quyết khiếu nại theo đúng quy định và thời hạn pháp luật quy định. Kết quả xem xét, giải quyết khiếu nại phải được thông báo bằng văn bản cho bị can, bị cáo biết. Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát: đây là nghĩa vụ cơ bản của bị can, bị cáo. Khi có giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà bị can, bị cáo vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải, còn nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Đây là một trong các biện pháp ngăn chặn được pháp luật áp dụng nhằm đảm bảo tiến trình tố tụng và ngăn chặn tội phạm.