Trong thực tiễn, vẫn có trường hợp người có thẩm quyền cố ý ra bản án trái pháp luật, làm sai lệch bản chất vụ án, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền con người, quyền công dân và uy tín của cơ quan tư pháp. Hành vi này được Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định tại Điều 370 nhằm xử lý nghiêm minh những người lợi dụng quyền hạn xét xử, cố tình làm trái pháp luật; qua đó bảo vệ sự trong sạch, công bằng và thượng tôn pháp luật trong hoạt động tư pháp.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội ra bản án trái pháp luật:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội ra bản án trái pháp luật:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội ra bản án trái pháp luật:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội ra bản án trái pháp luật:
- 5 5. Hậu quả pháp lý và xã hội của hành vi ra bản án trái pháp luật:
- 6 6. Nguyên nhân và điều kiện dẫn đến Tội ra bản án trái pháp luật:
- 7 7. Phân biệt với Tội ra quyết định trái pháp luật:
1. Khái quát chung về Tội ra bản án trái pháp luật:
1.1. Khái niệm:
Trong những năm qua, công tác xét xử của Tòa án nhân dân các cấp đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần giữ vững kỷ cương pháp luật, bảo vệ công lý, quyền con người và trật tự xã hội. Bên cạnh những thành tựu đó, thực tế vẫn tồn tại tình trạng ra bản án trái pháp luật – tức là bản án được tuyên không đúng người đúng tội, đúng pháp luật; từ đó gây ra hậu quả oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Mặc dù số vụ việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 370 Bộ luật Hình sự 2015 là không phổ biến nhưng mỗi trường hợp xảy ra đều tạo dư luận xã hội rất lớn, bởi đây là hành vi xuất phát từ chính những người có chức năng bảo vệ công lý. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tăng cường trách nhiệm nghề nghiệp, đạo đức tư pháp và cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực trong hoạt động xét xử.
Khái niệm: “Tội ra bản án trái pháp luật là hành vi của Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân biết rõ bản án mà mình tuyên là trái với quy định của pháp luật, nhưng vẫn cố ý ra bản án đó. Nói cách khác đây là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng quyền lực tư pháp để đưa ra phán quyết sai, không căn cứ vào pháp luật, trái với sự thật khách quan của vụ án, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền con người, quyền công dân, quyền được xét xử công bằng và niềm tin vào công lý.”
1.2. Ý nghĩa:
Việc quy định tội ra bản án trái pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng trên cả phương diện chính trị, pháp lý và xã hội, thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc xây dựng nền tư pháp trong sạch, nghiêm minh, liêm chính và bảo đảm quyền con người.
- Thứ nhất: Tội danh này là công cụ pháp lý để răn đe, ngăn chặn hành vi lạm quyền và tha hóa quyền lực trong hoạt động xét xử. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người cố ý ra bản án sai thể hiện rằng mọi cá nhân, dù giữ chức vụ tư pháp cao thì đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
- Thứ hai: Việc xử lý nghiêm hành vi ra bản án trái pháp luật giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quyền được xét xử công bằng và nguyên tắc “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật.” Điều này củng cố niềm tin của nhân dân vào công lý và hệ thống tư pháp.
- Thứ ba: Quy định tội danh này còn có ý nghĩa bảo vệ hoạt động đúng đắn, khách quan, độc lập của cơ quan xét xử; góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm, đề cao đạo đức nghề nghiệp và tinh thần thượng tôn pháp luật.
- Thứ tư: Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người ra bản án trái pháp luật là biện pháp khôi phục công bằng và tái lập niềm tin của nhân dân vào công lý; thể hiện tính nghiêm minh, minh bạch và công khai của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội ra bản án trái pháp luật hiện nay đang được quy định tại Điều 370 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
c) Kết án oan người vô tội về tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng; người phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng;
đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Kết án oan người vô tội về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Bỏ lọt tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Dẫn đến bị cáo, người bị hại, đương sự tự sát;
đ) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội ra bản án trái pháp luật:
2.1. Khách thể:
Tội ra bản án trái pháp luật không chỉ xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan xét xử mà còn có thể trực tiếp xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tập thế hoặc của Nhà nước. Các quyền và lợi ích này có thể là quyền tự do, là danh dự, là các lợi ích vật chất hoặc các lợi ích phi vật chất.
Đối tượng của tội phạm là bản án. Theo đó, bản án được hiểu là văn bản ghi nhận phán quyết của tòa khi giải quyết được được một vụ án hình sự hoặc dân sự. Bản án là sự kết thúc của cả quả quá trình từ điều tra, truy tố cho đến xét xử.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của tội phạm được quy định là: Hành vi ra bản án trái pháp luật.
Bản án trái pháp luật có thể là bản án hình sự, bản án dân sự, bản án hôn nhân và gia đình, bản án lao động, bản án hành chính cũng như các bản án về các lĩnh vực khác mà tòa án có thẩm quyền xét xử. Các bản án này có thể có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo, có thể có lợi cho đương sự này nhưng không có lợi cho đương sự khác.
Tính trái pháp luật của những bản án này có thể thê hiện ở những khía cạnh rất khác nhau nhưng có thể được hiểu một cách chung nhất là: Nội dung quyết định của bản án không phù hợp với thực tế của vụ án trên cơ sở đối chiếu với pháp luật hiện hành. Sự không phù hợp đó có thể do dựa trên những tình tiết sai và dẫn đến áp dụng pháp luật sai nhưng cũng có thể dựa trên những tình tiết đúng nhưng vẫn áp dụng sai pháp luật.
Hành vi ra bản án trái pháp luật được hiểu là hành vi của thành viên hội đồng xét xử biểu quyết đồng ý với quyết định của bản án (sẽ tuyên). Theo đó, có thể có trường hợp tất cả thành viên hội đồng xét xử đều có hành vi ra bản án trái pháp luật và cũng có thể có trường hợp chi một số thành viên hội đồng xét xử có hành vi này vì thành viên khác không biểu quyết đồng ý với quyết định của bản án trái pháp luật.
2.3. Mặt chủ quan:
Lỗi của người phạm Tội ra bản án trái pháp luật được quy định là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết rõ nội dung bản án mà mình biểu quyết đồng ý (sẽ tuyên) là trái pháp luật nhưng vẫn biểu quyết đồng ý.
Trường hợp không biết rõ bản án mà mình biểu quyết đồng ý là trái pháp luật không thuộc trường hợp phạm tội này.
Trong thực tiên, động cơ phạm tội của tội này có thể khác nhau nhưng động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu định tội. Người phạm tội đã ra bản án trái pháp luật có thể do tư lợi, do nể nang, do thù tức…
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của tội ra bản án trái pháp luật được quy định là chủ thể đặc biệt. Đó phải là người có thẩm quyền ra bản án. Trong đó:
- Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử;
- Hội thẩm nhân dân là Người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
3. Khung hình phạt của Tội ra bản án trái pháp luật:
Tội ra bản án trái pháp luật theo Điều 370 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Nhận xét:
Tội ra bản án trái pháp luật lần đầu tiên được quy định tại Điều 232 Bộ luật Hình sự 1985 với tên gọi là Tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật.
“1. Thẩm phán, hội thẩm nhân dân nào cố ý ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.”
Tội ra bản án trái pháp luật được tách ra thành một tội phạm độc lập tại điều 295 Bộ luật Hình sự năm 1999:
“1. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.”
Có thể thấy rằng, ngay từ lúc xây dưng bộ luật hình sự đầu tiên, Nhà nước đã đánh giá được tính chất nguy hiểm của hành vi ra bản án trái pháp luật và xem nó là tội phạm, tuy nhiên vào thời kỳ đó thì kỹ thuật lập pháp chưa thực sự tốt. Đánh dấu sự thay đổi của tội phạm này đó là việc tách Tội ra bản án trái pháp luật thành một tội phạm độc lập tại Bộ luật Hình sự năm 1999 và năm 2015.
Tuy nhiên, hạn chế trong quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1999 là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không được quy định một cách rõ ràng, khi chỉ xác định về tính chất nghiêm trọng mà không quy định rõ như Bộ luật Hình sự năm 2015.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội ra bản án trái pháp luật:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội ra bản án trái pháp luật được quy định tại Điều
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 370 Bộ luật Hình sự 2015:
- Phạm tội 02 lần trở lên: Tình tiết này thể hiện tính chất tái phạm hoặc phạm tội có hệ thống của người có thẩm quyền xét xử. Đây không còn là hành vi sai phạm đơn lẻ, nhất thời mà cho thấy ý thức coi thường pháp luật, cố ý lặp lại hành vi vi phạm trong hoạt động xét xử. Mỗi lần ra bản án trái pháp luật đều gây hậu quả riêng biệt đối với công lý và niềm tin của nhân dân, do đó người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm nặng hơn với khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù.
- Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu: Đây là tình tiết tăng nặng có tính nhân đạo và bảo vệ nhóm yếu thế trong tố tụng hình sự. Việc người có thẩm quyền cố ý ra bản án trái pháp luật đối với người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc người già yếu là hành vi đặc biệt đáng lên án; vì những đối tượng này cần được pháp luật bảo vệ ở mức cao hơn. Hành vi không chỉ xâm phạm công lý mà còn đi ngược lại nguyên tắc nhân đạo, bình đẳng của pháp luật hình sự Việt Nam, nên bị xử lý ở mức nghiêm khắc hơn.
- Kết án oan người vô tội về tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng: Khi người có thẩm quyền xét xử biết rõ người bị xét xử vô tội nhưng vẫn tuyên bản án kết tội, đặc biệt đối với tội nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng sẽ gây ra hậu quả pháp lý cho xã hội vô cùng lớn. Hành vi này xâm phạm trực tiếp đến quyền con người, làm mất niềm tin vào công lý, gây tổn thất về tinh thần, danh dự, nhân phẩm cho người bị oan và gia đình họ. Do tính chất đặc biệt nguy hiểm, pháp luật quy định đây là tình tiết tăng nặng trong khung hình phạt từ 05 đến 10 năm tù.
- Bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng; người phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng: Là một trong những biểu hiện điển hình của sự tha hóa quyền lực tư pháp. Khi người xét xử biết rõ có tội phạm hoặc có người phạm tội nhưng cố tình ra bản án để họ thoát tội, điều đó đồng nghĩa với việc đồng lõa, tiếp tay cho tội phạm và làm suy yếu hiệu lực của pháp luật. Nếu tội phạm bị bỏ lọt là tội nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng thì tính chất nguy hiểm càng tăng cao vì ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội.
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%: Tình tiết này phản ánh hậu quả tâm lý nghiêm trọng do bản án trái pháp luật gây ra. Việc bị kết án oan hoặc chịu thiệt hại nặng nề từ một phán quyết sai khiến người bị ảnh hưởng rơi vào khủng hoảng tinh thần, rối loạn tâm thần và hành vi; thậm chí mất khả năng lao động, sinh hoạt. Đây là thiệt hại không chỉ về pháp lý mà còn về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của công dân; do đó cần được xác định là tình tiết định khung tăng nặng quan trọng của Tội ra bản án trái pháp luật.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng: Khi giá trị thiệt hại từ 500 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng thì mức độ hậu quả được coi là rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền tài sản hợp pháp của công dân, doanh nghiệp hoặc tổ chức. Đây là cơ sở để truy cứu ở khung hình phạt tăng nặng (05 năm đến 10 năm tù), thể hiện sự nghiêm minh trong bảo vệ quyền sở hữu và uy tín của cơ quan xét xử.
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: Khi bản án trái pháp luật gây ra phản ứng tiêu cực trong dư luận sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan tư pháp, kích động khiếu kiện/khiếu nại, gây mất ổn định xã hội thì hành vi của người xét xử bị xem là đặc biệt nguy hiểm. Ảnh hưởng ở đây không chỉ là hậu quả pháp lý đối với cá nhân bị oan sai mà còn là tổn hại đến uy tín Nhà nước và tính ổn định của hệ thống pháp luật.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 370 Bộ luật Hình sự 2015:
- Kết án oan người vô tội về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Đây là tình tiết tăng nặng ở mức cao nhất. Việc kết án oan người vô tội về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như giết người, hiếp dâm, tham ô, phản bội Tổ quốc… là hành vi tước đoạt trắng trợn quyền con người, có thể dẫn đến hậu quả không thể khắc phục, như tử hình hoặc tù chung thân oan. Đây là biểu hiện cực kỳ nguy hiểm của sự tha hóa trong hoạt động tư pháp, nên pháp luật áp dụng khung hình phạt rất nghiêm khắc – từ 10 đến 15 năm tù, đồng thời có thể cấm đảm nhiệm chức vụ xét xử.
- Bỏ lọt tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng: Tình tiết này thể hiện sự dung túng có chủ ý cho tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, gây hậu quả to lớn cho an ninh quốc gia, tính mạng, tài sản và trật tự xã hội. Khi người có chức vụ xét xử lợi dụng quyền hạn để ra bản án trái pháp luật nhằm che giấu, bảo vệ người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thì hành vi này không còn là sai phạm nghề nghiệp mà là sự phản bội đối với công lý. Đây là một trong những tình tiết nghiêm trọng nhất, xứng đáng bị xử lý ở khung hình phạt cao nhất của tội danh này.
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên: Mức độ tổn hại sức khỏe này được xem là đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện hậu quả lâu dài và khó khắc phục. Người bị ảnh hưởng có thể mất hoàn toàn khả năng nhận thức, lao động, sinh hoạt, kéo theo gánh nặng kinh tế và tinh thần cho gia đình, xã hội. Khi hậu quả vượt mức 61% thì pháp luật xem đây là tình tiết tăng nặng ở khung 10 năm đến 15 năm tù nhằm thể hiện sự bảo vệ tuyệt đối đối với sức khỏe và nhân phẩm con người.
- Dẫn đến bị cáo, người bị hại, đương sự tự sát: Hậu quả khiến người bị kết án oan, người bị hại hoặc đương sự tự sát là một trong những hệ quả nghiêm trọng nhất của bản án trái pháp luật. Pháp luật xử lý hành vi này trong khung hình phạt cao (10 năm đến 15 năm tù) để răn đe, bảo đảm rằng mọi bản án phải được ban hành với tinh thần thượng tôn pháp luật, tôn trọng nhân quyền.
- Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên: Khi bản án trái pháp luật gây thiệt hại tài sản từ 1 tỷ đồng trở lên thì hậu quả được coi là đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến quyền lợi kinh tế, hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức hoặc đời sống của cá nhân. Con số này phản ánh không chỉ tổn thất vật chất mà còn thiệt hại về niềm tin và uy tín của hệ thống tư pháp. Người phạm tội phải chịu hình phạt ở mức cao nhất (10 năm đến 15 năm tù) và có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ tư pháp từ 01 năm đến 05 năm.
5. Hậu quả pháp lý và xã hội của hành vi ra bản án trái pháp luật:
5.1. Hậu quả đối với người bị oan, người bị thiệt hại:
Ra bản án trái pháp luật là hành vi xâm phạm trực tiếp đến quyền con người, quyền được xét xử công bằng và quyền được bảo vệ pháp lý hợp pháp của công dân. Khi một người bị kết án oan do bản án sai, họ phải chịu tổn thất to lớn cả về vật chất, tinh thần, danh dự và nhân phẩm.
Người bị kết án oan có thể bị tước đoạt tự do, mất việc làm, mất uy tín xã hội; trong khi người thật sự phạm tội lại không bị xử lý, tiếp tục gây nguy hiểm cho cộng đồng. Nhiều trường hợp bị oan phải mất nhiều năm mới được minh oan, song nỗi đau tinh thần, sự kỳ thị xã hội và thiệt hại cuộc sống không thể khắc phục hoàn toàn.
5.2. Ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan tư pháp và niềm tin công chúng:
Một bản án trái pháp luật không chỉ là sai sót cá nhân của người xét xử mà còn là vết thương đối với uy tín của Tòa án và toàn bộ hệ thống tư pháp.
Khi công dân chứng kiến những bản án bất công, niềm tin của họ vào nguyên tắc “pháp luật là công bằng, Tòa án là nơi bảo vệ công lý” bị lung lay. Dư luận xã hội dễ hình thành tâm lý nghi ngờ, mất niềm tin vào sự vô tư, khách quan của cơ quan xét xử.
Đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì đây là hậu quả nghiêm trọng, bởi công lý chỉ tồn tại khi nhân dân tin tưởng vào hệ thống tư pháp. Mỗi bản án trái pháp luật là một “vết nứt” trong niềm tin công chúng đối với nền công lý quốc gia.
5.3. Tác động đến trật tự, an ninh và sự ổn định xã hội:
Một bản án sai không chỉ gây hậu quả cá nhân mà còn đe dọa đến trật tự an ninh xã hội. Người phạm tội thật sự bị bỏ lọt có thể tiếp tục gây án, làm phát sinh tội phạm mới; trong khi người bị oan chịu thiệt thòi lại dễ phát sinh tâm lý bất mãn, phản kháng hoặc cực đoan hóa.
Bản án trái pháp luật còn làm gia tăng khiếu kiện, khiếu nại, tái thẩm, giám đốc thẩm… khiến bộ máy tư pháp tốn kém thời gian, nhân lực, ngân sách Nhà nước.
Trên bình diện rộng, nó làm suy yếu hiệu lực của pháp luật, ảnh hưởng đến tính ổn định chính trị và niềm tin của nhân dân vào Nhà nước – điều mà mọi quốc gia pháp quyền đều phải bảo vệ bằng mọi giá.
6. Nguyên nhân và điều kiện dẫn đến Tội ra bản án trái pháp luật:
6.1. Nguyên nhân chủ quan: Suy thoái đạo đức, tha hóa quyền lực hoặc thiếu trách nhiệm:
Phần lớn các trường hợp ra bản án trái pháp luật xuất phát từ nguyên nhân chủ quan của người tiến hành xét xử. Biểu hiện thường thấy là thiếu công tâm, chịu áp lực từ cấp trên, bị chi phối bởi quan hệ cá nhân hoặc lợi ích vật chất hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm trong nghiên cứu hồ sơ, thu thập chứng cứ.
Ngoài ra, sự suy thoái đạo đức nghề nghiệp và ý thức pháp luật yếu kém khiến người xét xử không nhận thức đầy đủ về hậu quả pháp lý, chính trị và xã hội của bản án sai, dẫn đến hành vi phạm tội.
6.2. Nguyên nhân khách quan: Áp lực công việc, sự can thiệp, thiếu giám sát và cơ chế phản biện:
Hoạt động xét xử vốn chịu áp lực lớn về thời hạn, khối lượng công việc và trách nhiệm pháp lý, trong khi đội ngũ cán bộ, thẩm phán ở một số nơi còn thiếu kinh nghiệm, hạn chế năng lực chuyên môn.
Mặt khác, sự can thiệp không đúng mực của cá nhân, tổ chức, thậm chí cơ quan có thẩm quyền vào quá trình xét xử cũng có thể khiến người ra bản án không còn giữ được tính độc lập và khách quan.
Ngoài ra, cơ chế giám sát nội bộ và phản biện xã hội đối với hoạt động xét xử còn hạn chế; việc công khai bản án, minh bạch quá trình xét xử chưa thực hiện triệt để, khiến khả năng phát hiện, ngăn chặn sai phạm còn yếu.
6.3. Hạn chế trong công tác tuyển chọn, đào tạo và giám sát đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm:
Một nguyên nhân khác là cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm, đánh giá và đào tạo thẩm phán – hội thẩm chưa thật sự chặt chẽ và toàn diện. Ở một số địa phương, việc đánh giá năng lực còn hình thức, thiếu chuẩn hóa kỹ năng xét xử và đạo đức nghề nghiệp.
Công tác giám sát, kiểm tra định kỳ về chất lượng xét xử, bản lĩnh nghề nghiệp và phẩm chất chính trị chưa được thực hiện thường xuyên. Điều này tạo khoảng trống trong việc phát hiện sớm các biểu hiện tiêu cực và hạn chế khả năng phòng ngừa sai phạm dẫn đến hành vi ra bản án trái pháp luật.
7. Phân biệt với Tội ra quyết định trái pháp luật:
Tiêu chí | Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 370 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 371 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Khách thể bị xâm phạm | Hoạt động xét xử đúng đắn, công minh của Tòa án; uy tín, tính độc lập và hiệu lực của quyền tư pháp. | Hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc hành chính tư pháp hợp pháp của cơ quan có thẩm quyền. |
Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội | Chủ thể đặc biệt: Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án. | Người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hoặc thi hành án (ví dụ: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thủ trưởng cơ quan điều tra, Chấp hành viên…). |
Hành vi khách quan | Ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật – tức là phán quyết cuối cùng, mang tính quyết định của Tòa án về việc giải quyết vụ án. | Ra quyết định tố tụng hoặc thi hành án (như quyết định khởi tố, bắt giam, đình chỉ, tạm giam, thi hành án…) mà người ra quyết định biết rõ là trái pháp luật. |
Tính chất của văn bản trái pháp luật | Là bản án – văn bản tố tụng cao nhất, có giá trị pháp lý đặc biệt, quyết định đến số phận pháp lý của bị cáo, đương sự. | Là quyết định tố tụng hoặc thi hành án, không phải bản án, có thể được ban hành ở nhiều giai đoạn khác nhau trong quá trình tố tụng. |
Lỗi của người phạm tội | Lỗi cố ý trực tiếp – người phạm tội biết rõ bản án trái pháp luật nhưng vẫn cố tình ban hành. | Lỗi cố ý trực tiếp – người phạm tội biết rõ quyết định của mình trái pháp luật nhưng vẫn ban hành hoặc thi hành. |
Hậu quả pháp lý bắt buộc | Có thể gây oan sai, bỏ lọt tội phạm, gây tổn hại sức khỏe, thiệt hại tài sản hoặc ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự xã hội. | Gây thiệt hại về tài sản từ 50 triệu đồng trở lên hoặc gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
THAM KHẢO THÊM: