Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù được quy định tại Điều 378 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền để tha, thả người đang bị giam giữ hoặc chấp hành án phạt tù trái quy định của pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng hoạt động tư pháp, trật tự quản lý giam giữ và tính nghiêm minh của pháp luật hình sự.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù:
- 2 2. Cấu thành Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 378 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật:
1. Khái quát về Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù:
1.1. Khái niệm:
Thực tiễn xét xử cho thấy hành vi tha trái pháp luật người đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù tuy không phổ biến rộng rãi nhưng lại xảy ra ở một số vụ việc nghiêm trọng trong hoạt động tư pháp; đặc biệt là ở các cơ quan có thẩm quyền giam giữ, cơ quan thi hành án hình sự hoặc các cơ sở tạm giam, tạm giữ.
Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn, thiếu giám sát nội bộ, sự lỏng lẻo trong quy trình quản lý giam giữ hoặc do động cơ vụ lợi, tiêu cực như nhận hối lộ, bao che, dung túng cho tội phạm. Một số trường hợp khác xảy ra do năng lực yếu kém, thiếu hiểu biết pháp luật hoặc áp lực hành chính dẫn đến quyết định trái thẩm quyền.
Có đưa ra khái niệm như sau:
“Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền để ra quyết định tha, thả hoặc cho ra khỏi nơi giam giữ, tạm giam, tạm giữ hoặc trại giam trái với quy định của pháp luật, đối với người đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn hoặc đang chấp hành án hình sự.”
1.2. Ý nghĩa:
Việc quy định Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trong Bộ luật Hình sự 2015 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cả về chính trị, pháp lý và xã hội. Cụ thể như sau:
- Thứ nhất, tội danh này góp phần bảo đảm tính liêm chính, minh bạch và kỷ luật nghiêm minh trong hoạt động tư pháp. Bằng việc xử lý nghiêm người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tha trái pháp luật, Nhà nước khẳng định nguyên tắc không có ai đứng trên pháp luật (dù người đó có chức vụ, quyền hạn đến đâu).
- Thứ hai, quy định này bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, cụ thể là quyền được xét xử công bằng, quyền tự do cá nhân chỉ bị hạn chế theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Mọi hành vi tùy tiện tha/giam giữ người trái quy định đều bị coi là xâm phạm quyền con người và bị xử lý hình sự nghiêm khắc.
- Thứ ba, việc xử lý các hành vi tha trái pháp luật còn có ý nghĩa phòng ngừa chung nhằm ngăn chặn tình trạng lạm quyền, tiêu cực, tham nhũng trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào công lý và sự nghiêm minh của pháp luật.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù hiện nay đang được quy định tại Điều 378 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Người được tha trái pháp luật bỏ trốn hoặc có hành vi cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng;
c) Người được tha trái pháp luật trả thù người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng;
d) Tha trái pháp luật từ 02 người đến 05 người.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Tha trái pháp luật 06 người trở lên;
b) Người được tha trái pháp luật thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù:
2.1. Khách thể:
Tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc người đang chấp hành án phạt tù là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền để tha, thả, cho ra khỏi nơi giam giữ, tạm giữ hoặc trại giam những người đang bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đang thi hành án hoặc đang chờ xử lý, không đúng quy định của pháp luật. Đây là hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự, kỷ cương trong hoạt động tư pháp và chế độ giam giữ của Nhà nước, làm sai lệch kết quả tố tụng cũng như ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật hình sự.
Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù xâm phạm trực tiếp đến hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự… làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động tố tụng. Đồng thời, hành vi này còn xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về chế độ giam, giữ, dẫn giải, làm suy giảm uy tín của cơ quan tư pháp và đe dọa trật tự, an toàn xã hội.
Đối tượng tác động của tội phạm này là người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc người đang chấp hành án phạt tù – những người đang trong tình trạng bị hạn chế quyền tự do thân thể theo quyết định hợp pháp của cơ quan có thẩm quyền. Thông qua việc tha trái pháp luật những người này, người phạm tội trực tiếp xâm phạm khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ; cụ thể là hoạt động đúng đắn của cơ quan tiến hành tố tụng và trật tự quản lý giam giữ của Nhà nước.
Cụ thể:
- Người bị tạm giữ: Là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (khoản 1 Điều 3 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015).
- Người bị tạm giam: Là người đang bị giam giữ trong trại tạm giam của Bộ Công an hoặc Bộ Quốc phòng, phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án; bao gồm cả người bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án.
- Người đang chấp hành án phạt tù: Là người đã bị kết án và đang thi hành hình phạt tù theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, tại các trại giam thuộc cơ quan thi hành án hình sự.
Như vậy: Khách thể của tội phạm này là hoạt động đúng đắn, liên tục và hợp pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời bao gồm cả kết quả của hoạt động tố tụng và trật tự an toàn xã hội. Việc tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ hoặc thi hành án không chỉ gây cản trở trực tiếp đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử mà còn đe dọa tính nghiêm minh của pháp luật và quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm này là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền để tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc người đang chấp hành án phạt tù. Đây là hành vi sai phạm có tính chất đặc biệt nghiêm trọng trong hoạt động tư pháp, trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý giam giữ của Nhà nước và tính nghiêm minh của pháp luật hình sự.
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tha trái pháp luật” là trường hợp người có chức vụ, quyền hạn được pháp luật trao thẩm quyền quyết định việc tha, hủy bỏ biện pháp giam giữ hoặc thi hành án nhưng đã lợi dụng quyền hạn đó để ra quyết định tha người bị giam, giữ trái quy định. Nói cách khác, người này dùng chính quyền hạn hợp pháp của mình để thực hiện hành vi trái pháp luật (ví dụ: ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giam, tạm giữ, hoặc cho phép người đang chấp hành án phạt tù ra khỏi trại giam khi chưa có căn cứ hoặc điều kiện được tha….).
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, tùy từng giai đoạn tố tụng điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án mà cơ quan hoặc người tiến hành tố tụng khác nhau có thẩm quyền bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc quyết định trả tự do cho người bị giam, giữ. Vì vậy khi xem xét hành vi phạm tội thì cần căn cứ vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể để xác định chính xác người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hay đã lạm quyền trong việc tha trái pháp luật.
“Lạm quyền tha trái pháp luật” là hành vi không có thẩm quyền nhưng vẫn tự ý ra quyết định tha người đang bị giam, giữ hoặc đang chấp hành hình phạt tù, có thể bằng văn bản hoặc bằng lời nói. Người phạm tội trong trường hợp này vẫn là người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến việc giam, giữ hoặc thi hành án, nhưng đã vượt quá giới hạn thẩm quyền được giao, tùy tiện quyết định tha người bị giam giữ trái pháp luật. Nếu người đó không có bất kỳ chức vụ hoặc quyền hạn nào liên quan đến hoạt động giam giữ, họ sẽ không thể thực hiện được hành vi phạm tội này.
Biểu hiện cụ thể của hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền để tha trái pháp luật có thể bao gồm:
- Ra quyết định trả tự do trái pháp luật, hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp tạm giam, tạm giữ bằng biện pháp khác trong khi biện pháp tạm giam vẫn còn cần thiết;
- Tự ý thả người bị tạm giữ, tạm giam hoặc người đang chấp hành án phạt tù khi chưa có quyết định hợp pháp của cơ quan có thẩm quyền;
- Cho phép người đang chấp hành án phạt tù ra khỏi trại giam trong thời gian chưa đủ điều kiện được đặc xá hoặc giảm án;
- Thả người trên đường dẫn giải, di chuyển hoặc trong quá trình lao động, cải tạo;
- Ra lệnh đình chỉ thi hành án hoặc thay đổi hình phạt tù trái quy định.
Hậu quả của hành vi phạm tội là người bị giam giữ hoặc người đang chấp hành hình phạt tù được tha trái pháp luật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động bình thường của cơ quan tiến hành tố tụng và đe dọa trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành cơ bản của tội phạm này.
Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm người có chức vụ, quyền hạn hoặc người lạm quyền thực hiện hành vi tha trái pháp luật, không phụ thuộc vào việc người được tha có trốn hoặc phạm tội mới hay không.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù là chủ thể đặc biệt. Chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; những người có trách nhiệm trong việc quản lý, canh gác, dẫn giải người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều kiện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên (Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015).
2.4. Mặt chủ quan:
Người phạm tội tha trái pháp luật người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù thực hiện hành vi phạm tội của mình là do lỗi cố ý, có thể do lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền và việc tha người bị giam, giữ như vậy là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra.
Động cơ tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội danh này.
3. Khung hình phạt của Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù:
Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù theo Điều 378 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 378 Bộ luật Hình sự:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 378 Bộ luật Hình sự 2015:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 378:
- Tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Đây là tình tiết tăng nặng thể hiện mức độ nguy hiểm cao của hành vi phạm tội. Người phạm tội trong trường hợp này đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tha trái pháp luật đối tượng đang bị xử lý hoặc chấp hành án về tội phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm cao như tội giết người, tham ô, buôn ma túy, khủng bố… Việc tha những người phạm tội loại này không chỉ cản trở hoạt động tư pháp mà còn đe dọa an ninh, trật tự xã hội và gây mất niềm tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật. Do đó, hành vi này bị xử lý nghiêm khắc hơn thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước trong bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật hình sự.
- Người được tha trái pháp luật bỏ trốn hoặc có hành vi cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng: Tình tiết này phản ánh hậu quả nguy hiểm trực tiếp phát sinh từ hành vi phạm tội của người có thẩm quyền. Khi người được tha trái pháp luật bỏ trốn, cản trở hoạt động tố tụng hoặc tiếp tục phạm tội mới; điều đó cho thấy hành vi tha trái pháp luật đã tạo điều kiện cho tội phạm trốn tránh công lý, làm sai lệch quá trình xử lý hình sự. Hậu quả này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử mà còn làm mất tính răn đe và giáo dục của pháp luật. Vì vậy, hành vi này được xếp vào nhóm tình tiết tăng nặng với mức phạt cao hơn để răn đe những người có chức vụ, quyền hạn dễ bị tác động hoặc lợi dụng vị trí công tác để thực hiện hành vi sai trái.
- Người được tha trái pháp luật trả thù người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng: Đây là một tình tiết đặc biệt nghiêm trọng vì hậu quả của hành vi tha trái pháp luật không chỉ làm sai lệch quá trình thực thi pháp luật mà còn gây nguy hiểm trực tiếp cho những người thực hiện nhiệm vụ tố tụng và người tham gia tố tụng. Việc người được tha trái pháp luật thực hiện hành vi trả thù cho thấy hậu quả gián tiếp của việc tha trái pháp luật không chỉ dừng ở việc cản trở công lý mà còn xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự của người thi hành công vụ.
- Tha trái pháp luật từ 02 người đến 05 người: Hành vi tha trái pháp luật đối với nhiều người cùng lúc thể hiện mức độ nguy hiểm tăng cao về phạm vi và hậu quả. Càng nhiều người được tha trái pháp luật thì nguy cơ gây rối loạn hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, trại tạm giam, cơ sở thi hành án hình sự càng lớn. Hành vi này không chỉ làm suy yếu hiệu lực quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự mà còn tạo điều kiện cho nhiều đối tượng cùng lúc trốn tránh trách nhiệm pháp lý và đe dọa an ninh trật tự xã hội. Do đó, pháp luật quy định đây là tình tiết tăng nặng, áp dụng khung hình phạt cao hơn (từ 02 năm đến 07 năm tù) để bảo đảm tính nghiêm minh và kỷ cương trong thi hành pháp luật.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 378:
- Tha trái pháp luật 06 người trở lên: Đây là tình tiết tăng nặng thể hiện hành vi phạm tội có tính hệ thống, tổ chức hoặc quy mô lớn. Khi người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tha trái pháp luật nhiều người cùng lúc thì hành vi này không còn mang tính cá biệt mà đã xâm phạm nghiêm trọng đến hoạt động của cơ quan tư pháp, làm mất trật tự trong quản lý giam giữ, thi hành án và có thể gây hậu quả lan rộng về chính trị xã hội. Pháp luật hình sự coi đây là hành vi đặc biệt nguy hiểm. Vì thế quy định mức hình phạt cao hơn nhằm xử lý nghiêm những trường hợp lợi dụng chức vụ có tính hệ thống hoặc móc nối trong bộ máy.
- Người được tha trái pháp luật thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Tình tiết này thể hiện hậu quả đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Khi người được tha trái pháp luật tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nguy hiểm hơn như giết người, cướp tài sản, buôn bán ma túy hoặc các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì hậu quả xã hội của hành vi tha trái pháp luật không chỉ là vi phạm quy trình tố tụng mà còn góp phần trực tiếp làm phát sinh tội phạm mới có tính chất đặc biệt nguy hiểm. Vì vậy, người có hành vi tha trái pháp luật trong trường hợp này phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn (với mức hình phạt từ 05 đến 10 năm tù) tương xứng với tính chất hậu quả đã gây ra.
5. Phân biệt với Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật:
Tiêu chí | Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 377 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù (Điều 378 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Khái niệm | Là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bắt, giữ, giam người trái pháp luật. Tức là tước đoạt quyền tự do thân thể của người khác không có căn cứ hoặc trái quy định pháp luật. | Là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền để tha, thả trái pháp luật người đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù, làm sai lệch hoạt động tố tụng, thi hành án hình sự. |
Bản chất hành vi | Hành vi xâm phạm quyền tự do thân thể bằng cách giam giữ trái phép, tức là giam người khi pháp luật không cho phép. | Hành vi xâm phạm trật tự quản lý giam giữ bằng cách tha trái phép, tức là thả người khi pháp luật không cho phép. |
Hành vi cụ thể | Bao gồm các hành vi:
| Bao gồm các hành vi:
|
Đối tượng tác động | Người đang bị tước tự do hợp pháp hoặc chưa bị bắt giữ (nạn nhân bị bắt, giữ, giam trái phép). | Người đang bị bắt, đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù hợp pháp. |
Hình thức lỗi | Lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện. | Lỗi cố ý trực tiếp, có thể kèm động cơ vụ lợi, bao che, dung túng hoặc cảm tình cá nhân. |
Chủ thể của tội phạm | Người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động bắt, giữ, giam người theo quy định của pháp luật (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan thi hành án…). | Người có chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng hoặc thi hành án hình sự (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, cán bộ trại giam, trại tạm giam…). |
Khách thể xâm phạm | Xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tiến hành tố tụng và quyền tự do thân thể của công dân. | Xâm phạm hoạt động bình thường của cơ quan tiến hành tố tụng, trật tự quản lý giam giữ và sự nghiêm minh của pháp luật hình sự. |
Tính chất xâm phạm | Giam giữ người trái phép – tức là giữ người không được phép giữ. | Tha người trái phép – tức là thả người không được phép thả. |
Mặt khách quan | Thực hiện hành vi bắt, giữ, giam người khi không có căn cứ, không có lệnh hoặc quá thời hạn pháp luật quy định hoặc không thi hành quyết định trả tự do. | Thực hiện hành vi ra quyết định hoặc trực tiếp thả người bị giam giữ trái quy định hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn, hủy bỏ việc tạm giam, tạm giữ khi chưa có căn cứ. |
Dấu hiệu hậu quả | Có thể làm người bị giam giữ trái pháp luật bị tổn hại sức khỏe, thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng nhân phẩm, thậm chí chết hoặc tự sát. | Hậu quả là người bị giam giữ được tha trái phép, có thể bỏ trốn, cản trở tố tụng, phạm tội mới hoặc trả thù người tiến hành tố tụng. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Thời điểm tội phạm hoàn thành | Khi hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật được thực hiện và không cần hậu quả xảy ra. | Khi hành vi tha, thả trái pháp luật được thực hiện dù hậu quả có xảy ra hay không. |
THAM KHẢO THÊM: