Tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng là gì? Tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng tiếng anh là gì? Những quy định liên quan đến tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng?
Theo
Mọi hành vi vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng đều bị xử lý theo
Cơ sở pháp lý:
1. Tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng là gì?
Khoản 14 Điều 4
Khoản 21 Điều 4 Luật đầu tư công 2014: “Vốn đầu tư công quy định tại Luật này gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư.”
Tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng là hành vi vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư, vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư, vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án, vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự: Gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỉ luật về hành vi này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp được quy định tại Điều 224 Bộ luật hình sự.
2. Tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng tiếng anh là gì?
Tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng tiếng anh là: “Offences against regulations on the management and use public capital that lead to serious consequences”.
3. Những quy định liên quan đến tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng?
Tội vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Điều 220 Bộ Luật hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 224 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư;
b) Vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư;
c) Vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án;
d) Vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:
a) Vì vụ lợi;
b) Có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
d) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng khách quan và chủ quan được quy định trong Luật Hình sự thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm, tức là căn cứ vào các dấu hiệu đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Cấu thành tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng bao gồm các dấu hiệu sau:
Mặt khách quan của tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng
Hành vi khách quan phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi nguy hiểm này được thể hiện bằng việc thực hiện hay không thực hiện hành động thuộc các trường hợp cấm của luật. Người thực hiện hành vi biết hoặc có nghĩa vụ phải biết việc mình làm hay không thực hiện hành động mà từ đó gây nên nguy hiểm cho xã hội thì sẽ có hành vi khách quan để cấu thành tội phạm.
Hành vi khách quan của tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng này thể hiện qua việc người phạm tội đã lợi dụng chức vụ quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây: vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư, vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư, vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án, vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án.
Đây là tội có cấu thành vật chất được coi là đã hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra hậu quả thực tế, hành vi vi phạm quy định, thảm định chủ trương. được người phạm tội hoàn thành và đã gây thiệt hại đến vốn đầu tư công. Hậu quả của tội gian lận bảo hiểm y tế đó là gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan bảo hiểm. Những biểu hiện cụ thể của tội phạm này dẫn đến những rối loạn trong việc chi trả bảo hiểm y tế.Cơ quan bảo hiểm phải trả những khoản tiền bảo hiểm không đúng so với thực tế.
Mặt chủ quan của tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng
Về dấu hiệu lỗi của tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng: Lỗi là thái độ tâm lý của người thực hiện hành vi đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó của mình gây ra, đây là dấu hiệu bắt buộc phải có ở mọi tội phạm. Người thực hiện hành vi vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng có lỗi cố ý trực tiếp khi nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả của hành vi đó mà vẫn mong muốn nó xảy ra.
Về động cơ và mục đích của người phạm tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng: Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy con người thực hiện hành vi biểu hiện ra bên ngoài. Mục đích là kết quả trong ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi. Động cơ và mục đích phạm tội là yếu tố phải có trong lỗi cố ý trực tiếp.
Chủ thể của tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng
Chủ thể của tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công là người có năng lực trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương mại.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu là trong lúc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì người đó bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Chủ thể của tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng phải là người có chức vụ quyền hạn liên quan đến lĩnh vực quản lý và sử dụng vốn đầu tư công.
Khách thể của tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng
Khách thể của tội phạm là lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là trong lĩnh vực đầu tư chương trình, dự án quyết định đầu tư, lập, thẩm định chương trình đầu tư, tư vấn thiết kế chương trình, dự án…
Hình phạt đối với tội vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng
– Đối với trường hợp thuộc cấu thành cơ bản:
Vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư;
Vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư;
Vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án;
Vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án.
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
– Đối với trường hợp thuộc cấu thành tăng nặng:
Vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công vì vụ lợi;
Vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công có tổ chức;
Vi phạm về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên.
Chủ thể thực hiện những hành vi thuộc cấu thành tăng nặng trên có thể bị phạt tù từ 03 năm đến 20 năm.
Đối với hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.