Xử lý hành vi xâm phạm sức khoẻ của người khác. Truy cứu trách nhiệm hình sự tội cố ý gây thương tích.
Xử lý hành vi xâm phạm sức khoẻ của người khác. Truy cứu trách nhiệm hình sự tội cố ý gây thương tích.
Khoản 1 Điều 20 Luật hiến pháp 2013 của nước Cộng hoà xã hội Việt Nam quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Như vậy, cho dù với bất kì lý do gì, không ai có quyền xâm phạm đến thân thể của người khác. Tuy nhiên, trên thực tế, hành vi đánh đập, cố ý gây thương tích cho người khác đang diễn ra thường xuyên. Đây là một hành vi vi phạm pháp luật và gây ảnh hưởng đến đời sống người dân, gây nhiễu loạn an ninh trật tự xã hội. Những người có hành vi này có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
– Về xử phạt vi phạm hành chính:
Người nào có hành vi xâm hại đến sức khoẻ của người khác mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điểm e) Khoản 3 Điều 5
"3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
…
e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác;"
Do đó, mọi hành vi xâm hại đến sức khoẻ, thân thể của người khác đều là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ bị xử phạt bởi chế tài. Tuy nhiên, mức xử phạt hành chính này chưa đủ để răn đe những kẻ thường xuyên có hành vi dùng bạo lực với gia đình, bạn bè, hàng xóm… để giải quyết những mâu thuẫn trong cuộc sống.
– Về trách nhiệm hình sự:
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:
"Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân."
>>> Luật sư tư vấn xử lý hành vi xâm phạm sức khoẻ của người khác: 1900.6568
Như vậy, một người có hành vi cố ý gây thương tật hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi gây ra tỉ lệ thương tật lớn hơn 11% hoặc dưới 11% nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999.
– Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
Người có hành vi xâm phạm đến sức khoẻ của người khác sẽ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người đó theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
+ Thiệt hại khác do luật quy định.
+ Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại thêm một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.