Khái quát về quyền xác định dân tộc? Xác đinh và lựa chọn dân tộc cho con khi đăng ký khai sinh?
Quyền xác định dân tộc là quyền nhân thân gắn liền với cá nhân từ khi sinh ra cho đến khi đến lớn lên, không tách rời khỏi cá nhân. Việc xác định dân tộc có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để biết được các chính sách áp dụng đối với cá nhân cũng như là truyền thống của nước ta khi Việt Nam là nước có đến 54 dân tộc anh em. Quyền xác định dân tộc đã được ghi nhận lần đầu tiên trong
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
1. Khái quát về quyền xác định dân tộc?
Theo Từ điển Luật học (2006), dân tộc (tộc người) là hình thái đặc thù của một tập đoàn người, xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi ba đặc trưng cơ bản là ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác về cộng đồng, mang tính bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử, ví dụ: dân tộc tày, dân tộc Nùng,…Theo định nghĩa này, thì dân tộc là một bộ phận quốc gia- tức là quốc gia có nhiều dân tộc.
Dân tộc cũng được có thể được hiểu là toàn bộ nhân dân của một quốc gia- quốc gia dân tộc.
Tuy nhiên, dân tộc trong quyền xác định dân tộc được hiểu là một bộ phận của quốc gia, “là một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ, bền vững về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ và có nét văn hóa đặc thù”.
Xác định dân tộc được hiểu là việc xác định lần đầu tiên dân tộc cho một cá nhân áp dụng phổ biến đối với trường hợp trẻ sơ sinh khi làm thủ tục đăng ký khai sinh. Quyền xác định dân tộc là quyền nhân thân của cá nhân, là khả năng pháp luật cho phép cá nhân được xác định dân tộc theo trình tự, thủ tục hợp pháp để đảm bảo quyền, lợi ích của mình.
Đặc điểm của quyền xác định dân tộc:
– Quyền xác định dân tộc cả cá nhân là một quyền nhân thân liên quan đến lợi ích tính thần, gắn liền với mỗi chủ thể và không thể dịch chuyển.
– Quyền xác định dân tộc là quyền nhân thân không thể định giá được bằng tiền và không có tính chất ngang giá và không gắn liền với tài sản.
– Hành vi xâm phạm đến quyền xác định dân tộc là hành vi xâm phạm tác động vào chính chủ thể quyền.
– Phương thức nhà nước bảo vệ quyền xác định dân tộc là bảo vệ khi có yêu cầu của chủ thể.
Về mặt pháp lý, quyền xác định dân tộc của cá nhân là một quyền dân sự. Việc xác định dân tộc của cá nhân giúp cá nhân có thể thực hiện đầy đủ những quyền lợi và nghĩa vụ mà Nhà nước quy định cho cá nhân đó.
Về mặt thực tiến, cá nhân thực hiện quyền của mình xuất phát từ nhu cầu cảu bản thân hoặc của những người có liên quan. Việc xác định dân tộc của con được đặt ra khi con sinh ra thì mang dân tộc của ai? Theo ý chí của cha để hay mẹ để hay theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ? nếu trẻ sinh ra không xác định được cha mẹ để thì xác định dân tộc như thế nào?…Điều này sẽ ảnh hưởng không chỉ tới chính quyền công dân của họ và còn ảnh hưởng tới sự quản lý xã hội của Nhà nước.
2. Xác đinh và lựa chọn dân tộc cho con khi đăng ký khai sinh?
Hiện pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp.”. Như vậy, quyền xác định dân tộc là quyền hiến định và được cụ thể hóa thông qua
Điều 29 Bộ luật dân sự đã có sự sửa đổi so với Bộ luật dân sự năm 2015, trước đây điều luật này được đặt tên là “Quyền xác định dân tộc”, bây giờ, tên điều luật là “Quyền xác định, xác định lại dân tộc”. Trong quy định này thể hiện nội dung về xác định dân tộc, xác định lại dân tộc, mối quan hệ giữa hai quyền, theo đó quyền xác định dân tộc là quyền nhân thân của cá nhân, có từ khi cá nhân sinh ra và thường được áp dụng cho lần xác định dân tộc đầu tiên của một cá nhân, việc xác định dân tộc là tiền đề, căn cứ để cá nhân có thể thực hiện quyền xác định lại dân tộc.
Thông thường thời điểm xác định dân tộc của cá nhân là khi cá nhân đó sinh ra. Dân tộc của cá nhân được thể hiện trong Giấy khai sinh của cá nhân đó.
Người có trách nhiệm đăng ký khai sinh cũng như xác định dân tộc cho trẻ là cha hoặc mẹ đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khái sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ. (Điều 15 Luật Hộ tịch)
Việc xác định và lựa chọn dân tộc cho con khi đăng ký khai sinh được thực hiện theo quy định tại Khoản 2, Điều 29 Bộ luật dân sự, cụ thể:
“Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp không có thỏa thuận thì dân tộc của con được xác định theo tập quán; trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn.
Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì dân tộc của trẻ em được xác định theo dân tộc của người đó.
Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em vào thời điểm đăng ký khai sinh cho trẻ em.“
Dựa trên quy định này, có thể thấy rõ được các nguyên tắc xác định dân tộc cho con như sau:
Thứ nhất, cá nhân sinh ra được xác định theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ.
Một là, trong trường hợp cha đẻ, mẹ để có cùng dân tộc thì con khi sinh ra được xác định theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Quy định này thể hiện tính kế thừa của quy định cũ, thể hiện truyền thống gia đình, đạo đức của con người Việt Nam, khi con được sinh ra, có quan hệ huyết thống với cha đẻ, mẹ đẻ thì đương nhiên dân tộc cảu con phải được xác định theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ.
Hai là, trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ. Có thể thấy quy định này thể hiện pháp luật dân sự tôn trọng sự thỏa thuận của cha đẻ, mẹ để- nguyên tắc đặc trưng của luật dân sự. Cha đẻ, mẹ để có quyền thỏa thuận với nhau để thống nhất xác định dân tộc cho con theo dân tộc của cha đẻ hay mẹ đẻ. Ngoài ra, pháp luật cũng dự liệu tình huống cha đẻ và mẹ đẻ không có thỏa thuận hoặc không thể thỏa thuận được với nhau thì xác định dân tộc cho con theo tập quán. Trong trường hợp dân tộc của cha đẻ, mẹ để thuộc hai dân tộc khác nhau và có tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn. Đây là quy định mới được bổ sung của Bộ luật dân sự năm 2015, theo quy định này có thể thấy pháp luật có sự ưu tiên đối với người dân tộc ít người hơn bởi theo quan điểm ,chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm bảo vệ và phát triển số lượng người thuộc dân tộc ít người hơn.
Thứ hai, xác định dân tộc trong trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ.
Một là, xác định dân tộc cho trẻ em bị bỏ rơi chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi. Trong trường hợp này, trẻ em bị bỏ rơi được xác định dân tộc theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha nuôi, mẹ nuôi. la Ví dụ: anh A (dân tộc Kinh) và chị B (dân tộc Thái) có nhận C làm con nuôi, thì khi đăng ký khai sinh cho C, anh A và chị B có thể thỏa thuận C xác định dân tộc Kinh hoặc dân tộc Thái. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì dân tộc của trẻ được xác định theo dân tộc của người đó. Có thể thấy, nguyên tắc xác định dân tộc cho trẻ em được nhận làm con nuôi giống với nguyên tức xác định dân tộc cho trẻ em xác định được cha đẻ, mẹ đẻ như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp trẻ em có cha nuôi, mẹ nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được xác định dân tộc của trẻ em bị bỏ rơi mà cha nuôi, mẹ nuôi thuộc hai dân tộc khác nhau thì không có hướng giải quyết cụ thể.
Hai là, xác định dân tộc cho trẻ em bị bỏ rơi trong trường hợp chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi. Trước khi có quy định về việc xác định dân tộc cho trẻ bị bỏ rơi trong Bộ luật dân sự năm 2015 thì
Nội dung quy định về xác định dân tộc cho trẻ em bị bỏ rơi là nội dung mới và rất tiến bộ. Nội dung này được quy định đảm bảo hơn về quyền trẻ em bị bỏ rơi, bảo đảm sự bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ như những trẻ em khác, hướng tới việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ me ngày càng toàn diện hơn.