Trong một vụ án hình sự, ngoài việc xác định hình phạt thì việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đặc biệt là trong vụ án có đồng phạm, là một trong những vấn đề quan trọng nhằm giải quyết toàn diện mẫu án để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại.
Mục lục bài viết
1. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có đồng phạm:
Căn cứ theo quy định tại Phần I của Công văn 212/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử, có quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự có đồng phạm. Theo đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự có đồng phạm sẽ được xác định cụ thể như sau: Trong quá trình xem xét, ra quyết định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án nhân dân sẽ căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự có đồng phạm sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 587 của Bộ luật dân sự năm 2015, theo đó thì có thể nói, trong trường hợp có nhiều người cùng gây ra thiệt hại thì những người cùng gây ra thiệt hại đó sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho những đối tượng được xác định là người bị thiệt hại trên thực tế. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng có hành vi gây ra thiệt hại trên thực tế sẽ được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người đó. Nếu như cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thể xác định được mức độ lỗi của từng người gây ra thiệt hại thì những đối tượng này sẽ phải bồi thường thiệt hại theo một phần bằng nhau. Ngoài ra, để có thể xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự, thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án có thể tham khảo thêm hướng dẫn tại
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 587 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra. Theo đó thì có thể thấy, trong trường hợp nhiều người cùng có hành vi gây ra thiệt hại cho người khác thì những người đó sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người trong trường hợp này sẽ được xác định tương ứng với mức độ lỗi của người đó gây ra trên thực tế, nếu Như cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thể xác định được mức độ lỗi của từng người thì mỗi người sẽ phải bồi thường thiệt hại một phần bằng nhau.
Theo đó thì có thể thấy, trong trường hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại thì những người đó sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người trong trường hợp cung gây ra thiệt hại sẽ được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi đồng phạm. Nếu Như cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thể xác định được mức độ lỗi của từng người đồng phạm nhất định, thì mỗi người đồng phạm sẽ phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại một phần bằng nhau.
2. Khi có đồng phạm bỏ trốn, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự được xác định như thế nào?
Nhìn chung thì có thể nói, trong một vụ án hình sự, ngoài vấn đề xác định tội danh và xác định hình phạt cho người phạm tội, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng nhằm giải quyết một cách toàn diện vụ án hình sự đó, đồng thời để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của những người bị thiệt hại trong vụ án hình sự. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự khi có đồng phạm là vấn đề vô cùng khó khăn, đặc biệt là khi có đồng phạm bỏ trốn. Cách giải quyết trong trường hợp đồng phạm bỏ trốn hiện nay vẫn có nhiều tranh cãi. Tuy nhiên có thể áp dụng quy định của pháp luật để giải quyết tình huống trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự khi có đồng phạm bỏ trốn. Theo như phân tích nêu trên, những vụ án hình sự có đồng phạm thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ là trách nhiệm liên đới, mỗi bên sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường dựa trên phần lỗi mà mình đã gây ra, nếu như không thể xác định được lỗi thì mỗi bên sẽ phải bồi thường một phần bằng nhau. Nếu như có đồng phạm bỏ trốn thì bên còn lại sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ phần của đồng phạm đó, cho đến khi tìm được người bỏ trốn thì sẽ thực hiện thủ tục hoàn trả theo quy định của pháp luật. Quy định này là hợp lý bởi vì căn cứ theo quy định tại Điều 585 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định, thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời, nếu như các bên có thể thỏa thuận với nhau về mức bồi thường thì sẽ thực hiện theo mức bồi thường đó. Hình thức bồi thường có thể bằng tiền hoặc bằng hiện vật hoặc bằng một công việc cụ thể, phương thức bồi thường có thể bồi thường một lần hoặc bồi thường nhiều lần, trừ trường hợp các bên có quy định khác hoặc pháp luật liên quan có quy định khác.
Vì vậy có thể thấy, trong trường hợp có 01 đồng phạm bỏ trốn trong vụ án hình sự có phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cơ quan tiến hành tố tụng đã tạm đình chỉ vụ án đối với đồng phạm bỏ trốn, cho nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ thuộc về toàn bộ người còn lại nhằm đảm bảo quyền lợi cho người bị hại, còn trách nhiệm hoàn trả của những người đồng phạm bỏ trốn sẽ được giải quyết căn cứ theo quy định tại Điều 587 của Bộ luật dân sự năm 2015, tức là trong trường hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại thì những người đó phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại, trách nhiệm bồi thường của từng người trong trường hợp này sẽ được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người đó, nếu Như cơ quan có thẩm quyền không thể xác định được mức độ lỗi thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại với một phần bằng nhau. Như vậy, chấp nhận yêu cầu của bị hại và bắt buộc những người còn lại trong vụ án đó phải bồi thường toàn bộ cho người bị hại là có căn cứ và hợp pháp. Người đồng phạm bỏ trốn sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn trả theo quy định của pháp luật sau khi bắt được và xét xử.
3. Các đồng phạm tự nguyện bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả có được xem là tình tiết giảm nhẹ không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó thì có thể kể đến một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
– Người phạm tội có hành vi ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
– Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc có hành vi khắc phục hậu quả;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, vượt quá yêu cầu tình thế cấp thiết, vượt quá mức cần thiết trong quá trình bắt giữ tội phạm, phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
– Phạm tội xuất phát từ hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà hoàn cảnh đó không phải do người phạm tội tự mình gây ra, phạm tội khi chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn trên thực tế;
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật;
– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức dưới bất kỳ hình thức nào và không có khả năng lựa chọn khác;
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi mà không phải do lỗi của mình gây ra;
– Phạm tội do lạc hậu, người phạm tội là phụ nữ có thai, người từ đủ 70 tuổi trở lên, người có khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
– Người phạm tội là người bị bệnh hạn chế nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi;
– Người phạm tội tự thú, thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải;
– Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền trong quá trình phát hiện tội phạm và giải quyết vụ án;
– Người phạm tội có công chuộc tội, là người có thành tích xuất sắc trong quá trình học tập và chiến đấu công tác, người có công với cách mạng hoặc cha mẹ/vợ chồng/con cái của họ là liệt sĩ.
Theo đó thì có thể thấy, một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên có kể đến người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả. Như vậy thì khi các đồng phạm trong vụ án hình sự có hành vi bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả thì sẽ được xem là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
– Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
– Công văn 212/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử.