Vị trí, vai trò của nguyên tắc đồng thuận trong giải quyết xung đột xã hội? Yêu cầu của nguyên tắc đồng thuận trong giải quyết xung đột xã hội?
Mục lục bài viết
1. Nguyên tắc đồng thuận là gì:
Nguyên tắc đồng thuận là một trong những thành tố thiết yếu của một nền quản trị tốt. Tuy nhiên, việc xác định nội hàm của nguyên tắc này dường như chưa đạt được sự thống nhất một cách rộng rãi.
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP”) xác định định hướng đồng thuận là một trong 8 nguyên tắc trụ cột của quản trị tốt, mà theo cách diễn đạt của tổ chức này thì “Quản trị tốt dung hòa các lợi ích khác nhau để đạt được sự đồng thuận rộng rãi về điều gì là tốt nhất cho cả nhóm và, khi có thể, đối với các chính sách và các tiến trình”. Cũng lưu ý rằng quan điểm của UNDP coi quản trị tốt là một công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của con người. Trong một tài liệu dường như được trích dẫn nhiều hơn tại Việt Nam có tựa đề “What is Good Governance?” của Ủy ban Kinh tế Xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương của LHQ (UNESCAP), quan điểm của UNDP dường như được lặp lại, nhưng với những hướng dẫn chi tiết hơn: “.. Quản trị tốt yêu cầu sự dung hòa các lợi ích khác nhau trong xã hội nhằm đạt được sự đồng thuận rộng rãi về điều mang lại phúc lợi lớn nhất cho xã hội và cách đạt được điều đó. Nó cũng đòi hỏi góc nhìn rộng và dài hạn về những gì là cần thiết cho sự phát triển bền vững của con người và làm sao đạt được những mục tiêu cụ thể của sự phát triển đó. Những điều đó chỉ có thể là kết quả của sự hiểu biết về bối cảnh lịch sử, văn hóa và xã hội của một cộng đồng hay xã hội nhất định”.7
Khi khảo sát những quan điểm khác về quản trị tốt, có thể thấy rằng dường như nguyên tắc đồng thuận không phải lúc nào cũng nhận được sự ghi nhận phù hợp. Một nguyên tắc khác có mối quan hệ rất chặt chẽ với nó là nguyên tắc tham gia dường như được “ưu ái” hơn hẳn, và có thể được tìm thấy trong quan điểm về quản trị tốt của rất nhiều các nguồn có thẩm quyền cao khác. Có khi nguyên tắc đồng thuận không hề được đề cập đến. Chẳng hạn, OHCHR cho rằng quản trị tốt có 05 yếu tố đặc trưng gồm minh bạch; trách nhiệm; trách nhiệm giải trình; sự tham gia; và sự đáp ứng nhu cầu của người dân; đồng thuận và định hướng đồng thuận không được nhắc tới. * Hội đồng nhân quyền châu Âu (CE”) liệt kê 12 nguyên tắc của quản trị tốt với nguyên tắc “Bầu cử công bằng, Đại diện và Tham gia” đứng đầu tiên, trong đó, ý tưởng về sự đồng thuận chỉ được nhắc đến một cách khá khiêm tốn và đơn giản hóa: “...việc ra quyết định sẽ theo ý chí của đa số, trong khi các quyền lợi của nhóm thiểu số phải được tôn trọng”. Ở đây, đồng thuận chỉ được xem xét dưới góc nhìn về quyền chính trị: người dân chỉ cần có cơ hội được trình bày ý kiến là đủ.
Dường như theo cách tiếp cận này thì ngay trong nội hàm của nguyên tắc tham gia đã chứa đựng yếu tố hướng tới đồng thuận. Điều này có thể đã được xây dựng dựa trên quan niệm của Ngân hàng thế giới (WB), theo đó, sự tham gia là “một quá trình mà các bên liên quan (stakeholders) ảnh hưởng và chia sẻ kiểm soát đối với các sáng kiến phát triển cũng như các quyết định và các tài nguyên có ảnh hưởng đến họ”. Quản trị cũng có nghĩa là một nỗ lực nhằm tạo điều kiện cho người dân góp sức vào quá trình quản trị thực chất có ý nghĩa là để có được sự “cho phép” của người dân – một tiến trình đầy tính dân chủ. Tác giả Lã Khánh Tùng đã sử dụng thuật ngữ “quản trị dân chủ” để thể hiện sự liên hệ mật thiết giữa các khái niệm dân chủ và quản trị tốt với gạch nối là sự tham gia rộng rãi của người dân. Chính bởi có mục đích là để tạo ra sự đồng thuận, sự tham gia của công chúng được xem như là một yêu cầu của quản trị.
Tuy nhiên, tác giả cho rằng góc nhìn đó chưa thực sự thuyết phục. Để làm rõ luận điểm này trước hết cần phải xem xét một cặp khái niệm rất gần gũi với vấn đề: “sự tham gia” và “sự đồng thuận” (của người dân). Và mối quan hệ giữa hai khái niệm này có thể được tìm thấy thông qua việc khảo sát kỹ lưỡng khái niệm quản trị cũng như quản trị tốt.
Quản trị, theo cách hiểu của UNDP, bao gồm “bên cạnh những vấn đề khác, sự tham gia, sự minh bạch và trách nhiệm giải trình. Nó cũng phải hiệu quả và công bằng. Và nó cũng thúc đẩy pháp quyền. Quản trị tốt đảm bảo rằng các tru tiên về chính trị, xã hội và kinh tế sẽ được đặt ra dựa trên sự đồng thuận rộng rãi trong xã hội và tiếng nói của nhóm nghèo nhất và yếu thế nhất sẽ được lắng nghe...”. 13 Học giả Phillipe Schmitter đưa ra định nghĩa quản trị là “một phương pháp hoặc cơ chế để điều chỉnh... trong đó các chủ thể thường xuyên đạt tới các quyết định thỏa đáng hoặc ràng buộc lẫn nhau, thông qua đàm phán và hợp tác”. Jon Pierre khẳng định quản trị mang ý nghĩa “gắn kết giữa nhiều chủ thể để thực hiện các mục tiêu khác nhau”.
Trước tiên, các định nghĩa nói trên của quản trị đều khẳng định rằng quản trị không tồn tại nếu như đơn giản là người dân có thêm các kênh để tương tác với nhà nước. Sự tương tác đó sẽ mất đi ý nghĩa thực tiễn nếu như người dân không thể tạo ra ảnh hưởng đến việc ban hành và thực thi các quyết định. Học giả Sherry Arrnstein đã giúp làm rõ cách hiểu này khi đưa ra một mô hình 8 “cấp độ” của sự tham gia mà bà gọi tên là “Một thang đo sự tham gia của công dân” như sau:
– Thực hiện quyền công dân
– Công dân kiểm soát Quyền lực ủy nhiệm
– Quan hệ hợp tác
– Thực hiện chiếu lệ, hình thức
– Động viên
– Tham vấn Cung cấp thông tin Vận động
– Không có sự tham gia
– Thao túng
Những luận giải của Sherry trong nghiên cứu của bà đã cho thấy các chủ thể không nắm quyền càng có sức ảnh hưởng đến việc ra quyết định, sự tham gia của người dân càng có thực chất hơn; tuy nhiên, ở những cấp độ tham gia cao nhất, người dân thực sự trở thành chủ thể nắm giữ một phần hoặc toàn bộ quyền lực. Một cách logic, có thể nhận thấy rằng sự tham gia không có bất kỳ ý nghĩa thiết thực nào nếu ý chí và nguyện vọng của người dân không có giá trị ràng buộc với việc ra quyết định. Tóm lại, quản trị cần phải được xây dựng dựa trên cả sự tham gia và sự đồng thuận của người dân. Việc bỏ quên mục tiêu hướng đến đồng thuận sẽ đặt mọi nỗ lực của nhà nước vào nguy cơ không đạt được sự ủng hộ tự giác của quần chúng, và hiệu quả sau cùng có thể sẽ không được như mong muốn. Sự tham gia trong tình huống đó sẽ mang nhiều giá trị hình thức hơn là giá trị thực tiễn.
Như vậy thì quan điểm định hướng đồng thuận là một phần nội dung của nguyên tắc tham gia dường như tỏ ra phù hợp hơn với những điều vừa trình bày. Tuy nhiên, quan điểm này vẫn không thực sự thuyết phục trên khía cạnh logic và hiệu quả. Việc nguyên tắc tham gia phải chứa đựng cả sự tham gia và sự đồng thuận là quá ôm đồm, bởi: nếu như yếu tố tham gia đề cập đến các hành động cụ thể của nhà nước trong quá trình tương tác với người dân, thì yếu tố đồng thuận đề cập đến các mục tiêu cụ thể mà nhà nước nên chú trọng trong quá trình đó. Sự tham gia của rộng rãi của quần chúng tạo điều kiện tối đa cho người dân đưa tiếng nói của họ vào quá trình ra quyết định, nhưng chưa đủ để đảm bảo những quyết định đó sẽ làm hài lòng họ (ở mức độ tối đa có thể). Nguyên tắc tham gia có thể tạo ra các cuộc thảo luận nhưng không đủ để hướng dẫn các cuộc thảo luận đó đi đến kết quả tốt nhất.
Ta biết rằng quản trị tốt là một khái niệm được xây dựng để đánh giá các tiêu chuẩn và yêu cầu cụ thể của quản trị nhà nước nhà nước hiện đại.” Nội dung của quản trị tốt cần phải là những đặc trưng / nguyên tắc cụ thể của nền quản trị, cung cấp được định hướng xây dựng nền quản trị. Việc đưa nội dung đồng thuận vào nội dung của nguyên tắc tham gia là khả thi, tuy nhiên sẽ khiến cho nội dung trở nên cồng kềnh và dễ gây bối rối khi áp dụng.
Tóm lại, theo quan điểm của tác giả, nguyên tắc đồng thuận cần được thừa nhận là một nguyên tắc độc lập tương đối và bình đẳng với nguyên tắc tham gia. Hai nguyên tắc này liên hệ chặt chẽ với nhau thông qua mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề tham gia và vấn đề đồng thuận, tuy nhiên về mặt kỹ thuật vẫn cần phải phân tách rõ ràng để không gây nhầm lẫn. Từ đó có thể nêu định nghĩa ngắn gọn về nguyên tắc đồng thuận như sau: Nguyên tắc đồng thuận là một nguyên tắc cơ bản của quản trị tốt. Nó thiết lập tiêu chuẩn cho các mục tiêu cụ thể của quá trình quản trị dựa trên sự đồng thuận của người dân đối với các mục tiêu đó.
Tuy nhiên nguyên tắc đồng thuận cũng thể hiện sự gắn bó vô cùng chặt chẽ với nguyên tắc tham gia. Một cách logic, khó có thể tìm được tiếng nói chung của các nhóm khác nhau nếu họ không có cơ hội phát biểu và được lắng nghe, cũng như khó có thể mong muốn các nhóm sẽ tham gia một cách thực chất nếu như họ biết rõ tiếng nói của mình sẽ không có sức ảnh hưởng. Điều đó chứng tỏ sự tham gia là điều kiện tiên quyết của sự đồng thuận; thực hiện nguyên tắc tham gia là điều kiện cần để thực hiện nguyên tắc đồng thuận. Do vậy, nguyên tắc đồng thuận và nguyên tắc tham gia luôn luôn được thực hiện một cách song song và không tách rời.
2. Vị trí của nguyên tắc đồng thuận trong giải quyết xung đột xã hội:
Đồng thuận được hiểu là sự đồng tình, nhất trí trong suy nghĩ và hành động của các chủ thể xã hội về một hay một số vấn đề nào đó trên cơ sở những điểm tương đồng về nhu cầu, lợi ích, trong khi vẫn thừa nhận, tôn trọng những điểm khác biệt, với điều kiện là những điểm khác biệt này không gây tổn hại đến mục tiêu chung, hành động chung của cộng đồng các chủ thể đó.
Nguyên tắc đồng thuận trước hết trước hết là một nguyên tắc bền vững của xã hội trong phạm vi cộng đồng nhất định, đó cũng là biểu hiện của sự dân chủ trên nền tảng tự do thể hiện ý chí. Do đó việc giải quyết xung đột xã hội theo nguyên tắc đồng thuận thì dân chủ đóng vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện ý chí, lựa chọn của các bên xung đột. Dân chủ chân chính không loại trừ sự đa dạng và sự khác biệt, thậm chí những mâu thuẫn và xung đột về lợi ích trên nhiều mặt của đời sống xã hội: về chính trị, về kinh tế, văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng, các giá trị và quan điểm xã hội. hưng vấn đề là phương pháp tạo nên nhân tố cho sự dung hòa những sự khác biệt và đa dạng đó vì sự phát triển ổn định và bền vững của xã hội.
Trên phạm vi rộng, đồng thuận được xem là sự đồng tình, nhất trí của đa số các thành viên, không phân biệt tầng lớp, giai cấp, tôn giáo, tín ngưỡng dân tộc trong những vấn đề cần đi tới một quyết định cuối cùng. Trong phạm vi hẹp, đồng thuận là điều kiện có tính khách quan cho sự tồn tại của bất cứ hệ thống chính trị xã hội, một tổ chức, một Đảng hoặc một nhóm xã hội nào đó. Theo đó, đồng thuận là một hiện tượng tích cực về cơ bản gắn liền với các quá trình tích cực trong giải quyết các xung đột liên quan đến xã hội, tuy nhiên nó cũng chịu sự tác động không nhỏ của các quá trình, hiện tượng tiêu cực của xung đột xã hội. Tóm lại, cho đến nay người ta đều “đồng thuận” với nhau rằng, đồng thuận là một giá trị tinh thần của nhân loại, đánh dấu sự ổn định, phát triển và tiến bộ của loài người và xã hội loài người. Do đó đồng thuận là một tiêu chí quan trọng để đánh giá sự vững chắc của một xã hội khi nó giúp giải quyết tận gốc các xung đột trong xã hội đó. Cùng với đó đồng thuận cũng trở thành mục tiêu của quản lý xã hội phát triển.
Đồng thuận là một trạng thái đặc thù với những “tố chất” riêng của nó. Đồng thuận trước hết là một trạng thái bền vững của xã hội trong những phạm vi xã hội nhất định. Đồng thời, đồng thuận cũng là một phương pháp để giải quyết xung đột loại bỏ sự đối lập về quan điểm – phương pháp đồng thuận. Và khi nói đến đồng thuận trong giải quyết xung quyết xung đột xã hội thì thế mạnh của nó như sau:
– Đồng thuận như một giá trị căn bản được cộng đồng chia sẻ, lấy làm nguyên tắc ứng xử.
– Đồng thuận về nội dung(quan điểm, phương án, phương pháp).
– Đồng thuận về thủ tục – cách thức để đạt được sự nhất trí và thủ tục để biểu thị sự nhất trí, thống nhất về luật chơi chung.
– Đồng thuận trong việc tán thành và đồng thuận trong việc phủ nhận, không tán thành, không chấp nhận.
– Đồng thuận về pháp lý – đó là khi sự đồng thuận hay phương pháp đồng thuận được pháp luật xác định là phương pháp cần được áp dụng trong trường hợp cụ thể, trên những vấn đề cụ thể với kết cục pháp lý nhất định.
– Đồng thuận thực tế, hay là phi hình thức – đó là khi người ta đi đến sự nhất trí trên cơ sở tham vấn lẫn nhau mà không cần các quy định của Pháp luật.
Có thể nói rằng, nguyên tắc đồng thuận xã hội là một biểu hiện của xã hội dân chủ trên nền tảng tự do thể hiện ý chí. Đồng thuận hoàn toàn khác so với áp lực đa số, vì thực chất sự nhất trí của đa là sự bỏ qua hoặc coi thường lợi ích của thiểu số, mặc dù thiểu số đó gần bằng đa số. Một nền dân chủ mà chỉ dựa trên sự áp đảo của đa số đối với thiểu số trước sau gì cũng sẽ xảy ra tiếp xung đột, đo đó đồng thuận xã hội sẽ giải quyết vấn đề này thay cho nhất trí đa số.
3. Vai trò của nguyên tắc đồng thuận trong giải quyết xung đột xã hội:
Nguyên tắc đồng thuận đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển xã hội và giải quyết xung đột xã hội hiện nay. Tuy nhiên không phải bây giờ, người ta mới nhận thức được vai trò to lớn của đồng thuận. Ngay từ thời cổ đại, người ta đã biết cách đề cao sự hòa hợp – yếu tố quan trọng tạo nên sự đồng thuận. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đồng thuận đã được thừa nhận là một giá trị tinh thần có ý nghĩa và vai trò to lớn đối với tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng dân tộc.
Trong lịch sử phát triển của Việt Nam, đồng thuận đóng một vai trò hết sức to lớn trong quá trình dựng nước và giữ nước như:
– Nguyên tắc đồng thuận tham gia vào mọi vấn đề của đời sống xã hội, không ở đâu chúng ta không thấy vai trò của đồng thuận: trên phương diện đối ngoại, người ta cũng chú trọng những chính sách ngoại giao đề cao mục tiêu hòa bình, ổn định trên cơ sở đồng thuận. Trên phương diện chính trị, người ta cũng nhấn mạnh đến khía cạnh đối thoại thay cho đối đầu, lấy sự đồng thuận thay thế xung đột. Trên phương diện phát triển và quản lý sự phát triển của xã hội, đồng thuận và đoàn kết được xem như cơ sở, nền tảng giải quyết xung đột bền vững. Đồng thuận có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc điều chỉnh xã hội, giúp xã hội duy trì được sự ổn định, cân đối, hài hòa. Cũng có thể nói đồng thuận là một phương thức điều tiết xã hội, hài hòa xã hội giúp cho xã hội duy trì trạng thái hài hòa, bền vững.
– Tầm quan trọng của nguyên tắc đồng thuận thể hiện ở chỗ nó cho phép đưa ra cơ chế để giải quyết một cách thỏa đáng các xung đột thông qua chế độ dân chủ đại diện vốn thường dựa trên cơ sở quyền được ưu tiên của người dân cũng như trên cơ sở dân chủ đồng thuận, tức trên cơ sở của các nguyên tắc cân nhắc một cách đúng đắn lợi ích của tập thể, đặc biệt là lợi ích của các nhóm thiểu số vốn luôn duy trì và bảo vệ nét đặc trưng và khác biệt của mình. Đồng thời, đồng thuận hàm chứa các nguyên tắc dân chủ chung và các quyền con người vốn được xây dựng bằng hệ thống các biện pháp đặc biệt. Như trên đã nói, đồng thuận được xây dựng trên cơ sở việc phát huy dân chủ, việc đảm bảo lợi ích xã hội, đảm bảo công bằng xã hội sẽ gắn liền với yếu tố đó.
– Đồng thuận là phương thức thông qua quyết định tốt nhất vì chỉ bằng phương thức này mới giải quyết triệt để vấn đề. Ngoài ra, phương thức đồng thuận tạo ra bầu không khí lành mạnh trong xã hội chung và trong tổ chức cụ thể nói riêng. Vì nguyên tắc đồng thuận không hướng mọi người vào sự đối đầu mà hướng các chủ thể vào việc cân nhắc và tôn trọng lợi ích của nhau. Xét đến cùng, với nghĩa là thừa nhận lợi ích của những người khác là điều kiện để thực hiện lợi ích của mình, đồng thuận hình thành ở các chủ thể ý thức xã hội mới.
– Đồng thuận đóng vai trò như là động lực của sự phát triển xã hội. Ngoài vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và ổn định của hệ thống chính trị, đồng thuận cũng có vai trò quan trọng đối với tất cả các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, giúp duy trì sự cân bằng, ổn định của đời sống xã hội, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, cùng với các yếu tố khác như khoa học công nghệ, con người, công bằng xã hội dân chủ ... đồng thuận được coi là yếu tố tạo nên động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Bởi lẽ đồng thuận là nền tảng tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết xã hội, từ đó phát huy sức mạnh của tất cả các thành viên, giai tầng, dân tộc trong xã hội, tạo nên nội lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Theo nghĩa đó đồng thuận vừa là mục tiêu của động lực của sự phát triển đất nước.
– Với vai trò nền tảng dân chủ, đoàn kết, đồng thuận cũng có ý nghĩa to lớn trong việc tạo nên sự liên hợp, gắn kết xã hội. Trong bất cứ xã hội nào cũng tồn tại nhiều thành phần, lực lượng, giai tầng khác nhau, vì vậy việc làm thế nào để gắn kết các thành phần, lực lượng này thành một khối thống nhất là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Lịch sử của dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng, bất cứ khi nào các thành phần, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo trong xã hội gắn kết được với nhau, tạo thành khối thống nhất thì có thể tạo nên sức mạnh to lớn, mà không có khó khăn nào không thể vượt qua.
4. Yêu cầu của nguyên tắc đồng thuận trong giải quyết xung đột xã hội:
Thứ nhất, sự thống nhất về lợi ích chung giữa các thành viên xã hội, trong đó quan trọng nhất là về lợi ích kinh tế, chính trị và văn hóa.
Trong đời sống xã hội có nhiều loại lợi ích khác nhau tùy thuộc cách tiếp cận, chẳng hạn lợi ích chung, lợi ích riêng, lợi ích cơ bản, lợi ích cá nhân, lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia dân tộc, lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hóa, lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài v.v.. Thực tiễn và lý luận đều cho thấy rằng, lợi ích là cơ sở để kết nối các thành viên của một cộng đồng xã hội nhất định; sự đồng thuận và tính chất bền vững của một cộng đồng xã hội phụ thuộc vào khả năng giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa các thành viên của nó; vì lợi ích mà con người cùng nhau thỏa thuận để đi đến sự đồng thuận. Như vậy, cơ sở của đồng thuận xã hội là đồng thuận về lợi ích giữa các thành viên xã hội và bản chất của đồng thuận xã hội chính là sự đồng thuận về lợi ích. Phương thức để tạo ra đồng thuận xã hội là tìm kiếm sự đồng thuận về lợi ích chung trên phạm vi xã hội giữa các khuynh hướng, lực lượng xã hội khác nhau. Lợi ích chung này không phải là một đại lượng bất biến, mà tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể, nội dung của nó có sự khác nhau.
Trong xã hội, giữa các thành viên xã hội luôn tồn tại sự khác nhau về nhận thức, địa vị xã hội, quan điểm, tư tưởng, tín ngưỡng, lập trường giai cấp ... nên trên thực tế không thể tạo ra được một sự đồng thuận tuyệt đối và càng không thể áp đặt một cách máy móc những giá trị, lợi ích chung của nhóm xã hội này cho nhóm khác. Vấn đề mấu chốt là làm thế nào để các thành viên xã hội tự ý thức được giới hạn các lợi ích của mình trong quan hệ với lợi ích chung, từ đó đi đến thống nhất giới hạn của lợi ích chung để tạo ra được sự đồng thuận xã hội; trái lại, nếu lợi ích giữa các chủ thể xã hội mâu thuẫn gay gắt với nhau thì sẽ làm nảy sinh xung đột xã hội.
Thứ hai, sự tự nguyện nhất trí, tự giác gắn kết giữa các thành viên xã hội
Đồng thuận phải là kết quả của các cuộc thảo luận, đàm phán, thương thảo, thỏa thuận một cách khách quan, toàn diện trên quy mô xã hội. Xã hội càng tự do, dân chủ thì việc thảo luận càng diễn ra công khai, rộng rãi và do đó càng đạt được sự đồng thuận cao. Như vậy, giữa đồng thuận và dân chủ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Xây dựng sự đồng thuận xã hội cũng chính là tiến tới xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ; ngược lại, dân chủ càng được bảo đảm, các nguyên tắc của dân chủ càng được coi trọng thì càng đạt được sự đồng thuận xã hội ở mức cao. Nói cách khác, mức độ đồng thuận xã hội tỷ lệ thuận với chất lượng của đời sống dân chủ trong xã hội. Ngược lại, mọi sự cưỡng bức, áp đặt, vi phạm dân chủ cùng lắm cũng chỉ tạo ra được sự nhất trí tạm thời nào đó chứ không thể tạo ra sự đồng thuận đích thực, thậm chí còn tiềm ẩn khả năng dẫn đến xung đột xã hội.
Thứ ba, tôn trọng và thừa nhận những sự khác biệt không “đi ngược” mục tiêu chung, lợi ích chung của các thành viên xã hội
Chúng ta biết rằng, xã hội là một tập hợp những người không đồng nhất với nhau về lợi ích, nhu cầu, năng lực, quan điểm, tư tưởng ... Những khác biệt này được xem là những “cái đơn nhất” của mỗi cái riêng” trong mối liên hệ với “cái chung“. Chính những sự khác biệt trong đồng thuận xã hội đã tạo nên tính đa dạng, phong phú, phức tạp trong đời sống xã hội. Bên cạnh sự khác biệt, đồng thuận cũng hàm chứa cả những đối lập trong chừng mực nhất định giữa các khuynh hướng, lực lượng xã hội. Đây là những nhân tố cần thiết trong quá trình vận động, phát triển xã hội. Sự đối lập này là có tính biện chứng chứ không phải siêu hình, hay có tính chất tiêu cực, đối kháng, phá hoại, gây bất ổn xã hội. Thực tế cho thấy, trong không ít trường hợp, những quan điểm khác biệt hoặc đối lập đã trở thành một kênh “phản biện xã hội” tích cực để qua đó các chủ thể lãnh đạo, quản lý đất nước điều chỉnh, hoàn thiện chủ trương, chính sách nhằm tạo ra sự đồng thuận xã hội trong việc thực thi những chủ trương, chính sách ấy một cách hiệu quả. Vì vậy, phản biện xã hội như một phương thức quan trọng để đạt đồng thuận xã hội. Bởi vì, không có phản biện xã hội thì sẽ không có dân chủ, không có dân chủ thực sự thì không thể có đồng thuận, đại đoàn kết dân tộc.
Đồng thuận còn bao hàm cả sự đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phép biện chứng duy vật mác–xít đã chỉ rõ, sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan vận động, phát triển luôn gắn liền với sự vận động, phát triển và giải quyết các mâu thuẫn. Xây dựng và tăng cường đồng thuận cũng chính là quá trình không ngừng phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn xung đột xã hội. Dựa trên cơ sở những điểm tương đồng, sự đấu tranh giải quyết mâu thuẫn nhằm đạt được sự thống nhất. Như vậy, đồng thuận chính là mục đích của việc giải quyết mâu thuẫn biện chứng giữa những mặt đối lập để khắc phục những bất đồng về tư tưởng, quan điểm, lợi ích và hành động giữa các lực lượng xã hội nhằm đi đến sự thống nhất chung. Các mâu thuẫn ở đây được giải quyết bằng phương thức kết hợp các mặt đối lập” nhằm củng cố, tăng cường mối quan hệ đoàn kết, thống nhất và đồng thuận giữa các lực lượng xã hội, tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển.