Vai trò của Viện kiểm sát trong việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Trách nhiệm tham gia phiên toà phúc thẩm của VKS.
Mục lục bài viết
1. Quyền kháng nghị của Viện kiểm sát:
Tại khoản 1 Điều 21 BLTTDS 2015 khẳng định rõ: “Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.”
Kháng nghị là một hoạt động quan trọng của VKSND trong việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và trong tố tụng dân sự nói riêng. Cơ sở lý luận của quyền kháng nghị của VKS xuất phát từ chức năng của VKSND. Theo quy định của
Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể tiến hành các hoạt động tư pháp, trong đó chủ thể quan trọng nhất là TAND. Khi VKSND thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động của TAND trong tố tụng dân sự thì đó không phải là một hoạt động kiểm tra, thanh tra hành chính của cấp trên đối với cấp dưới, do đó VKSND không có quyền trực tiếp sửa đổi hoặc hủy bỏ những bản án, quyết định trái pháp luật của TAND. Để sửa đổi hoặc hủy bỏ những bản án, quyết định của TAND mà VKSND cho rằng chưa đúng pháp luật, VKSND phải thông qua một cơ chế gián tiếp bằng cách kháng nghị, kiến nghị hoặc yêu cầu chủ thể có thẩm quyền xem xét lại những quyết định đó.
Như vậy, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm: Là hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật trong việc phản đối bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án.
Mặt khác, mối quan hệ giữa VKSND và TAND trong tố tụng dân sự thì TAND và VKSND là hai cơ quan có vị trí độc lập và thực hiện hai dạng quyền lực nhà nước khác nhau trong tố tụng dân sự. TAND thực hiện quyền xét xử còn VKSND thực hiện chức năng kiểm sát đối với các hoạt động xét xử của TAND và hoạt động của những người tham gia tố tụng dân sự. Khi thực hiện quyền của mình, TAND và VKSND đều nhân danh quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực được Nhà nước trao cho, do đó hai cơ quan này không có quyền trực tiếp sửa đổi hoặc hủy bỏ những bản án, quyết định có vi phạm của nhau, VKSND không có quyền trực tiếp hủy bỏ hoặc sửa đổi những bản án, quyết định có vi phạm pháp luật của Tòa án. Vì vậy, phải có một cơ chế để VKSND thực hiện quyền kiểm sát bằng cách VKSND yêu cầu Tòa án cấp trên của Tòa án đã ra bản án, quyết định có vi phạm xem xét lại bản án, quyết định đó. Một trong những hình thức để thực hiện quyền này của Viện kiểm sát nhân là ban hành kháng nghị.
Theo cách hiểu chung nhất, kháng nghị là sự bày tỏ ý kiến phản đối bằng văn bản chính thức. Trong khoa học luật tố tụng, kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có thể hiểu là quyết định chính thức về việc chống án lên Tòa án cấp có thẩm quyền, làm ngưng hiệu lực phán quyết của Tòa án trong bản án, quyết định đã tuyên, đồng thời yêu cầu đưa vụ án ra xét xử lại. Dưới góc độ khoa học kiểm sát, kháng nghị là quyền năng, là biện pháp pháp lý đặc biệt quan trọng và cần thiết để VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, góp phần đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, chính thống.
Như vậy, quyền kháng nghị là một quyền năng pháp lý quan trọng của VKSND được Quốc hội trao cho ngay từ khi VKSND được thành lập. VKSND thực hiện quyền kháng nghị chính là thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động tố tụng của TAND. Quyết định kháng nghị của VKSND có tính quyền lực Nhà nước, trong đó chỉ rõ vi phạm trong bản án, quyết định TAND bị kháng nghị để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại nhằm khắc phục vi phạm, bảo đảm cho vụ việc dân sự được xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Qua quá trình phát triển của VKSND, chế định pháp luật về quyền kháng nghị của VKSND cũng ngày càng được quy định hoàn thiện hơn, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong từng thời kỳ.
2. Quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát:
Mặc dù hiện nay còn có nhiều quan điểm cho rằng quy định của pháp luật về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS còn nhiều điểm bất cập, chưa thực sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, làm kéo dài quá trình tố tụng cũng như không đảm bảo tính dứt điểm cả bản án, quyết định. Tuy nhiên, thực tế VKS chỉ kháng nghị phúc thẩm đối với những bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng trong những trường hợp như: Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; quyết định của bản án không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án; vụ án đã hết thời hiệu khởi kiện, người khởi kiện không có quyền khởi kiện; thành phần Hội đồng xét xử không đúng quy định của pháp luật; vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; chưa đủ điều kiện để khởi kiện vụ án dân sự; không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng; quyết định giải quyết vụ án vượt quá yêu cầu của đương sự hoặc không giải quyết đúng, đầy đủ yêu cầu của đương sự; buộc đương sự phải chịu án phí không đúng quy định của pháp luật.
Tùy thuộc vào đối tượng kháng nghị cũng như căn cứ vào thủ tục xem xét lại bản án quyết định của TAND, pháp luật quy định: Đối với vụ việc dân sự luật phân biệt các hình thức kháng nghị bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm, kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Cụ thể như sau:
“Kháng nghị bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm”
Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật là quyền năng pháp lý quan trọng để Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Kháng nghị phúc thẩm là quyền riêng có của Viện trưởng VKS cùng cấp với Tòa án cấp sơ thẩm và Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp đối với bản án, quyết định sơ thẩm.
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là kháng nghị đối với bản án, quyết định về vụ việc dân sự chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm. Quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của VKS đối với bản án, quyết định của Tòa án về vụ việc dân sự được quy định tại Điều 27 Luật TCVKSND 2014 và các Điều 21, 238, 279, 280, 281 282 và 284 BLTTDS 2015.
Trong giai đoạn giải quyết sơ thẩm vụ việc dân sự Viện kiểm sát đã tiến hành các hoạt động kiểm sát cần thiết theo quy định của pháp luật với mục đích đảm bảo cho quá trình tố tụng được tiến hành đúng pháp luật, nhưng vẫn có trường hợp trong quá trình xét xử không phát hiện kịp thời những sai phạm, thậm chí các biện pháp tác động của Viện kiểm sát tới Tòa án nhằm yêu cầu cơ quan này sửa chữa kịp thời các vi phạm tố tụng không được đáp lại một cách thỏa đáng dẫn đến bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án thiếu căn cứ hoặc không đảm bảo tính hợp pháp về luật nội dung và hình thức. Chính bằng việc kháng nghị, Viện kiểm sát mới thực hiện được đầy đủ và hiệu quả chức năng của mình là đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh trong suốt quá trình tố tụng, đảm bảo tính pháp chế trong bản án, quyết định của Tòa án.
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát là văn bản pháp lý làm phát sinh một số thủ tục mới yêu cầu Tòa án phải xem xét lại toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định bị kháng nghị nhằm mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, công minh và đúng pháp luật, đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định của Tòa án; kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hoặc quyết định của Tòa án. Mặc dù pháp luật không quy định hạn chế quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhưng để tránh việc kháng nghị trùng lặp, không cần thiết, đồng thời để đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương sự, Viện kiểm sát thường chỉ trực tiếp kháng nghị đối với những trường hợp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình xét xử, giải quyết vụ việc ở trình tự sơ thẩm hoặc Viện kiểm sát đã có ý kiến trước đó nhưng Tòa án không có biện pháp khắc phục thích đáng, hoặc trường hợp những vi phạm đó không bị kháng cáo hay chỉ kháng cáo một phần.
2.1. Về đối tượng quyền kháng nghị phúc thẩm:
toàn bộ hay một phần bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; Quyết định dân sự: quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự chưa có hiệu lực pháp luật có vi phạm nghiêm trọng pháp luật; đối với việc dân sự là các quyết định giải quyết việc dân sự, trừ quyết định giải quyết yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án (khoản 7 Điều 27 BLTTDS 2015), yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn (khoản 2 Điều 29 BLTTDS 2015), yêu cầu công nhận thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nối con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức,
cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình (khoản 3 Điều 29 BLTTDS 2015), yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, khoản 10 Điều 71
2.2. Về căn cứ ban hành kháng nghị:
BLTTDS 2015 không quy định căn cứ kháng nghị phúc thẩm. Tuy nhiên, tại Điều 5 Luật TCVKSND năm 2014 quy định chung về căn cứ kháng nghị là: “Khi bản án, quyết định của TAND vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì VKS kháng nghị”. Theo đó, căn cứ để VKS quyết định việc kháng nghị bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự là khi bản án, quyết định đó của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nhưng để hiểu rõ như thế nào là vi phạm nghiêm trọng pháp luật thì pháp luật tố tụng dân sự không quy định rõ ràng. Tuy nhiên, trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm thực tiễn công tác kiểm sát sự tuân theo pháp luật trong lĩnh vực dân sự thì một số vi phạm thường làm căn cứ để kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự cụ thể như sau:
+ Không đưa người có quyền lợi và nghĩa vụ tham gia tố tụng dân sự hoặc không triệu tập người làm chứng đến phiên tòa để đảm bảo tính khách quan trong việc đánh giá chứng cứ;
+ Việc thu thập, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, không khách quan;
+ Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu nhưng không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, gây thiệt hại cho đương sự;
+ Vi phạm trong việc giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện, quyền yêu cầu của đương sự;
+ Vi phạm trong việc xác định thời hiệu khởi kiện; + Việc tính lãi suất, án phí không đúng quy định của pháp luật;
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Đây là trường hợp Tòa án đã áp dụng sai các quy định về luật nội dung để giải quyết vụ án. Trong một số trường hợp Tòa án đã áp dụng sai về các điều luật, áp dụng các văn bản pháp luật đã hết hiệu lực, xác định không đúng quan hệ tranh chấp dẫn tới áp dụng sai về pháp luật nội dung để giải quyết vụ án làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự;
2.3. Về thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm:
Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm của VKSND được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 57 và Điều 278, Điều 372 BLTTDS 2015. Theo đó, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án, quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại vụ việc dân sự theo thủ tục phúc thẩm.
2.4. Về thời hạn kháng nghị phúc thẩm:
theo BLTTDS 2015 quy định cụ thể và thống nhất về thời hạn kháng nghị phúc thẩm đối với việc giải quyết vụ án dân sự đồng thời phân biệt hai loại thời hạn kháng nghị phúc bản án và thời hạn kháng nghị quyết định đình chỉ và tạm đình chỉ trên nguyên tắc thời hạn kháng nghị bản án dài hơn thời hạn kháng nghi quyết định. Theo đó:
+ Đối với các bản án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm, khoản 1 Điều 280 BLTTDS 2015 quy định thời hạn kháng nghị của VKS nhân dân cùng cấp là 15 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp VKS không tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày VKS nhận được bản án.
+ Trường hợp đối tượng kháng nghị là quyết định tạm đình chỉ và quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm thì thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp là 7 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 10 ngày kể từ ngày VKS cùng cấp nhận được quyết định theo khoản 2 Điều 280 BLTTDS 2015.
Như vậy, thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm thống nhất là 15 ngày và 30 ngày tùy tùng cấp ban hành quyết định kháng nghị không phân biệt án dân sự, kinh doanh thương mại hay lao động. Đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm thì thời hạn kháng nghị của VKS có khác nhau tùy thuộc vào từng cấp ban hành kháng nghị là 7 ngày và 10 ngày đối với quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ giải quyết vụ án.
Sau khi Viện kiểm sát cấp phúc thẩm nhận văn bản thông báo thụ lý vụ án theo trình tự phúc thẩm thì Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thụ lý kiểm sát vụ án và thông báo bằng văn bản cho Tòa án cấp phúc thẩm biết. Kiểm sát viên, Kiểm tra viên sẽ thực hiện kiểm sát nội dung này theo quy định tại Điều 285 BLTTDS 2015.
Theo quy định tại Điều 283 BLTTDS 2015, Tòa án cấp phúc thẩm có trách nhiệm chuyển hồ sơ vụ án dân sự cho VKS trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, gửi hồ sơ việc dân sự cùng quyết định mở phiên họp cho VKS cùng cấp để VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự để chuẩn bị tham gia phiên tòa phúc thẩm là 15 ngày kể từ ngày VKS nhận được hồ sơ vụ án.
Vì vậy, trước khi tham gia phiên tòa Kiểm sát viên phải kịp thời nghiên cứu hồ sơ vụ việc. Việc nghiên cứu hồ sơ tập trung vào các vấn đề: xem xét quá trình tố tụng giải quyết vụ việc ở giai đoạn sơ thẩm đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử; nắm vững nội dung, tình tiết và chứng cứ của vụ án nhất là các tình tiết liên quan đến lý do kháng cáo, kháng nghị, việc cung cấp chứng cứ tài liệu có đầy đủ hay không; xem xét lý do kháng cáo, kháng nghị, thủ tục kháng cáo, kháng nghị; xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị; xem xét phạm vi xét xử, giải quyết ở cấp phúc thẩm; phân tích tính hợp pháp của chứng cứ, điều khoản áp dụng của BLTTDS, BLDS và các văn bản pháp luật khác dự kiến áp dụng để giải quyết vụ án …
Trên cơ sở đó, Kiểm sát viên chuẩn bị việc trình bày kháng nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa, chuẩn bị đề cương hỏi những người tham gia tố tụng, chuẩn bị tài liệu chứng cứ để tranh luận với người tham gia tố tụng về kháng nghị của Viện kiểm sát; dự kiến một số tình huống tại phiên tòa.
2.5. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm:
– Các trường hợp VKS tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm Việc tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm giải quyết vụ án dân sự của Kiểm sát viên theo quy định của BLTTDS không hoàn toàn bắt buộc trừ trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị. Quy định hiện nay đã có nhiều thay đổi so với BLTTDS 2004 thì VKS có trách nhiệm tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp phúc thẩm. Tuy nhiên, trên thực tế Viện kiểm sát cấp phúc thẩm luôn bố trí đủ Kiểm sát viên tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp phúc thẩm giải quyết vụ án dân sự để đảm bảo chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm sát tuân theo pháp luật trong lĩnh vực dân sự.
Hoạt động của Viện kiểm sát tại phiên tòa, phiên họp:
Tại phiên tòa, phiên họp: Kiểm sát viên trình bày căn cứ, nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát và xuất trình tài liệu chứng cứ bổ sung (nếu có). Kiểm sát viên kiểm sát việc hỏi và công bố tài liệu chứng cứ, xem xét vật chứng tại phiên tòa phúc thẩm theo quy định tại Điều 303 BLTTDS 2015. Trường hợp xét thấy cần thiết cần phải làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án hoặc khắc phục các vi phạm, thiết sót trong việc hỏi của Hội đồng xét xử thì Kiểm sát viên chủ động tham gia hỏi.
Nếu việc trình bày kháng nghị của Kiểm sát viên, kháng cáo của đương sự, việc hỏi, xuất trình, công bố tài liệu chứng cứ và tranh luận giữa các bên tại phiên tòa có thể làm thay đổi đánh giá về việc tuân theo pháp luật tố tụng, quan điểm giải quyết vụ án thì Kiểm sát viên kịp thời thay đổi cho phù hợp với diễn biến phiên tòa. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể đề nghị HĐXX tạm hoãn, tạm ngừng phiên tòa hoặc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị theo các quy định của BLTTDS 2015 về những vấn đề này nhưng phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Theo quy định tại Điều 306 và khoản 4 Điều 314 BLTTDS 2015 và Điều 30 Thông tư liên tịch số 02/2016 thì phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phải đánh giá, nhận xét đầy đủ phần thủ tục cả những việc chấp hành đúng và những hạn chế vi phạm: Việc chấp hành tuân theo luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, những người tiến hành tố tụng khác, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng; phần quan điểm phát biểu của VKS đối với kháng cáo, kháng nghị, đề xuất hướng giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 308 BLTTDS 2015.
Những tư liệu về tư cách của người kháng cáo, thời hạn kháng cáo, nội dung kháng cáo, đề nghị HĐXX chấp nhận một phần hay toàn bộ kháng cáo hay không. Đối với vụ án do VKS kháng nghị, bài phát biểu của Kiểm sát viên cần trình bày rõ thêm căn cứ của kháng nghị, phân tích chứng cứ tài liệu bổ sung làm căn cứ kháng nghị, bảo vệ kháng nghị; bác bỏ hay chấp nhận ý kiến của đương sự, người tham gia tố tụng khác về căn cứ, nội dung kháng nghị. Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên họp phúc thẩm phải được thể hiện bằng văn bản có chữ ký của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp và được gửi ngay cho Tòa án sau khi kết thúc phiên tòa, phiên họp để lưu vào hồ sơ vụ án và hồ sơ kiểm sát. Đây là điểm đã thay đổi của BLTTDS 2015 so với BLTTDS 2011 khi quy định VKS phải gửi bài phát biểu cho Tòa án trong thời hạn 05 ngày sau khi kết thúc phiên tòa.
Khi chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của HĐXX tuyên án hoặc đọc quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm, Kiểm sát viên phải theo dõi nội dung của bản án, quyết định có phản ánh chính xác và đầy đủ kết quả hỏi, tranh luận hoặc những tình tiết, sự kiện liên quan đến việc tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử phúc thẩm trước đó tại phiên tòa, phiên họp hay không, ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án có được ghi nhận trong bản án, quyết định phúc thẩm hay không. Bản án, quyết định phúc thẩm phải được Tòa án cấp phúc thẩm gửi cho VKS cùng cấp trong thời hạn 15 ngày kể từ khi ra bản án, quyết định. Trong trường hợp Tòa phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân cấp cao xét xử phúc thẩm thì thời hạn này có thể dài hơn nhưng không quá 25 ngày (Điều 315 BLTTDS 2015).
Sau khi kết thúc phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên sẽ thực hiện việc báo cáo kết quả xét xử phúc thẩm và thực hiện kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án. Khi thực hiện kiểm sát bản án, quyết định phúc thẩm Kiểm sát viên sẽ tiến hành đối chiếu nội dung bản án, quyết định với những diễn biến và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Việc ra bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm có đúng quy định tại Điều 313 BLTTDS 2015 và các biểu mẫu về Bản án, quyết định phúc thẩm vụ án dân sự theo Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017. Về nội dung kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, VKS thực hiện theo quy định tại Điều 40 Quy chế 364 và Chỉ thị 04/CT-VT ngày 17/5/2002 của Viện trưởng VKSNDTC về tăng cường kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án trong lĩnh vực dân sự.
Trong trường hợp kết quả kiểm sát tại phiên tòa và kiểm sát bản án, quyết định phúc thẩm, Kiểm sát viên sẽ thực hiện việc chuẩn bị tài liệu, chứng cứ và làm văn bản đề xuất lãnh đạo Viện báo cáo, đề nghị với Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong trường hợp kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hoặc khi phát hiện có một trong những căn cứ quy định tại Điều 326 và Điều 352 BLTTDS 2015.
3. Kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm:
Đối tượng của hoạt động xét xử các vụ án dân sự là những quan hệ xã hội rất phức tạp, có lẽ vì thế, chưa có hệ thống Tòa án nào trên thế giới, kể cả những hệ thống Tòa án được coi là hoạt động tương đối hoàn hảo cũng khó tránh khỏi thiếu sót, sai lầm trong quá trình giải quyết vụ án. Ở nước ta, trong thực tiễn xét xử nói chung cũng như trong thực tiễn xét xử các vụ án dân sự nói riêng cũng có tình trạng một số bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn có thiếu sót hoặc sai lầm vì những nguyên nhân khác nhau. Để khắc phục tình trạng này, pháp luật tố tụng dân sự quy định những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị phát hiện thiếu sót hoặc sai lầm nghiêm trọng được xem xét lại theo thủ tục đặc biệt – thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tính chất đặc biệt của thủ tục này thể hiện ở chỗ nó chỉ được áp dụng đối với những vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền được pháp luật quy định. Theo quy định của Luật TCVKSND năm 2014 và BLTTDS 2015, Viện kiểm sát nhân dân là một trong những chủ thể được tiến hành kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về cơ bản có thể hiểu Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm là kháng nghị đối với bản án, quyết định về vụ việc dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng trong quá trình xét xử, giải quyết vụ việc hoặc có tình tiết mới theo quy định của pháp luật. Với ý nghĩa là thủ tục đặc biệt, thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm trong tố tụng dân sự chỉ được áp dụng đối với những vụ việc mà bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có vi phạm nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới… được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định trên cơ sở có kháng nghị của người có thẩm quyền.
Theo quy định của pháp luật, VKSND là một trong những chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân sự của VKS được quy định từ Điều 331 đến 336, 354, 355 và 357 BLTTDS 2015.
3.1. Căn cứ ban hành kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm:
– Căn cứ ban hành kháng nghị giám đốc thẩm: BLTTDS 2015 quy định điều kiện để kháng nghị giám đốc thẩm, theo đó người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 BLTTDS 2015 kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có đủ các điều kiện sau:
+ Khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có một trong những căn cứ kháng nghị như phân tích trên;
+ Khi có đơn đề nghị xem xét, hoặc thông báo, kiến nghị của Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hay kiến nghị của Chánh án TAND (Chánh án TAND cấp tỉnh kiến nghị Chánh án TAND cấp cấp hoặc Chánh án TAND cấp cao kiến nghị Chánh án TAND Tối cao) bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm khi phát hiện có vị phạm pháp luật… Song riêng đối với trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì không cần phải có đơn đề nghị hay thông báo, kiến nghị thì người có thẩm quyền vẫn kháng nghị.
– Căn cứ ban hành kháng nghị tái thẩm: Điều 352 BLTTDS 2015, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong các căn cứ sau:
+ Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
+ Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
+ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
+ Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.
Tuy nhiên, theo Điều 2 Nghị quyết 02/2016/HĐTP-TANDTC ngày 30/6/2016 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về hướng dẫn thi hành một số quy định của
Ví dụ: BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 không quy định về việc Thẩm phán phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ (chỉ quy định về phiên hòa giải). BLTTDS 2015 quy định khi giải quyết vụ án dân sự, Tòa án phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (Điều 210). Năm 2015, Tòa án thụ lý vụ án tranh chấp hợp đồng dân sự. Trong quá trình giải quyết, Tòa án không tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành xét xử sơ thẩm sau khi tổ chức hòa giải không thành. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nên đã có hiệu lực trước ngày 01/7/2016. Đối với trường hợp này, việc Tòa án không tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định tại BLTTDS 2015 không bị coi là “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục” để xem xét, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc xác định quá trình giải quyết vụ án có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không phải căn cứ vào quy định của BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011.
3.2. Về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm:
BLTTDS 2015 quy định, chỉ những người có thẩm quyền mới có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời hạn luật định, với những căn cứ, điều kiện cụ thể theo quy định của pháp luật. Các đương sự, cơ quan, tổ chức chỉ có quyền phát hiện những vi phạm nghiêm trọng hoặc những tình tiết mới trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và đề nghị những người có thẩm quyền thực hiện việc kháng nghị. Theo Điều 331 và Điều 354 BLTTDS 2015, người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong VKSND bao gồm:
+ Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
+ Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
3.3. Về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm:
Theo Điều 334 BLTTDS 2015 thì người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng nghị trong thời hạn 03 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 334. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 334 nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 02 năm kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:
+ Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều 334 đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;
+ Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 326 của Bộ luật này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Còn theo Điều 355 BLTTDS 2015 thì thời hạn kháng nghị tái thẩm là 01 năm kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 352 của Bộ luật này.
Có thể nói với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ quá trình tố tụng, bảo đảm việc ra bản án, quyết định của Tòa án khách quan, đúng pháp luật thì nhiệm vụ của Viện kiểm sát là phải áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục những thiếu sót, vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đó là sử dụng quyền kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm của mình.
Hoạt động kháng nghị của Viện kiểm sát là một hình thức, một biện pháp để thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ và thi hành thống nhất. Việc kháng nghị của VKS chính là một biện pháp pháp lý tác động đến hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, phản ánh sự kiểm sát, giám sát từ bên ngoài đến các hoạt động của cơ quan này.
Do hậu quả của việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ dẫn đến việc Tòa án cấp trên xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị và tạm đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định đó, nên trước khi tiến hành kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, Viện kiểm sát nhân dân cần phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, ý kiến của người khiếu nại, người kiến nghị, để tránh việc kháng nghị không đúng hoặc không cần thiết.
Quy trình, thủ tục nhận và xử lý đơn đề nghị, thông báo vi phạm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật rất chặt chẽ, công khai, minh bạch. Viện kiểm sát cấp cao và Viện KSNDTC cũng thực hiện kiểm sát trình tự, thủ tục nhận đơn, thông báo của các chủ thể liên quan đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với Tòa án nhân dân cùng cấp.
– Trước khi mở phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm cũng tương tự như phiên tòa phúc thẩm Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ việc, xem xét kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm…rồi đưa ra ý kiến trình Lãnh đạo viện xem xét.
– Tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm Kiểm sát viên sẽ thực hiện kiểm sát thủ tục từ khi bắt đầu đến khi HĐXX ra quyết định. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn thực hiện các hoạt động như: Trình bày nội dung và căn cứ kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao hoặc Tối cao; Công bố tài liệu chứng cứ mới do Viện kiểm sát thu thập để làm rõ hơn nội dung kháng nghị (nếu có); Tranh luận với các chủ thể về kháng nghị của Viện kiểm sát, các chủ thể này có thể là thành viên HĐXX hoặc đương sự và những người tham gia tố tụng khác nếu họ được triệu tập đến phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm. Đặc biệt, tại phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm Kiểm sát viên cũng đại diện cho Viện kiểm sát trình bày kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm do Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Thông tư liên tịch số 02/2016, mẫu số 39 Quyết định 204, trường hợp do Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị thì tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày nội dung, tính có căn cứ và hợp pháp của kháng nghị. Nếu Hội đồng giám đốc thẩm yêu cầu trình bày về căn cứ kháng nghị thì Kiểm sát viên phân tích làm rõ thêm căn cứ, tình tiết trong hồ sơ mà bản án phúc thẩm chấp nhận hoặc không chấp nhận không có căn cứ, vi phạm pháp luật.
Ví dụ, Hội đồng giám đốc thẩm đề nghị trình bày căn cứ của nhận định “Hợp đồng bảo lãnh thế chấp tài sản” của
Đối với trường hợp do Chánh án kháng nghị thì theo quy định tại khoản 2 Điều 31 Thông tư liên tịch số 02/2016, tại phiên tòa Kiểm sát viên trình bày tính có căn cứ và hợp pháp của kháng nghị; căn cứ đơn đề nghị của đương sự, thời hạn kháng nghị, thẩm quyền và nội dung của quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân đã theo đúng hoặc không đúng một trong các Điều 328, 329, 333 và 334 BLTTDS; kháng nghị đối với vi phạm pháp luật trong bản án là có hoặc không có cơ sở, là cần thiết hoặc không cần thiết. Trường hợp kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân không có căn cứ hoặc có nội dung trong kháng nghị không có căn cứ và không nhất trí với kháng nghị hoặc một phần kháng nghị thì Kiểm sát viên phát biểu quan điểm không nhất trí với toàn bộ kháng nghị hoặc một phần của kháng nghị.