Khi cá nhân mất tích tức có thể hiểu không có thông tin nào về cá nhân này tại địa phương thì những người có quyền và lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân tuyên bố mất tích. Tuyên bố mất tích là gì? Tuyên bố mất tích theo Bộ luật Dân sự?
Mục lục bài viết
1. Khi nào một người bị tuyên bố là mất tích:
Điều 68
Theo đó, điều kiện để xác định một cá nhân là mất tích bao gồm:
– Biệt tích 02 năm liền trở lên không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết:
Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố một người mất tích khi người đó đã biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết.
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
– Đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;
– Người liên quan yêu cầu Tòa án tuyên bố cá nhân là mất tích:
Nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án sẽ giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
– Có quyết định có hiệu lực pháp luật tuyên bố cá nhân là mất tích của Tòa án. Khi có đầy đủ các điều kiện trên thì hậu quả pháp lý đối với người này được áp dụng các quy định của pháp luật liên quan đến cá nhân mất tích.
So với
Hậu quả pháp cơ bản liên quan đến người mất tích bao gồm ba yếu tố: (1) Năng lực chủ thể của cá nhân mất tích được xác định là tạm dừng; (ii) Quan hệ hôn nhân của cá nhân mất tích có thể được Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu vợ hoặc chồng của họ có yêu cầu Tòa án; (ii) Tài sản của người mất tích được quản lý theo quy định tại Điều 69 Bộ luật dân sự năm 2015.
Yêu cầu đối với tuyên bố cá nhân mất tích là quyết định của Tòa án phải được gửi, lưu trữ và ghi chú tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015 kế thừa nguyên vẹn quy định tại Điều 78
2. Hậu quả của việc tuyên bố mất tích:
Điều 70 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về hậu quả pháp lý áp dụng đối với người bị tuyên bố là mất tích nhưng sau đó đã có tín tức của người này. Các quy định đặt ra đối với trường hợp tuyên bố mất tích là để đảm bảo quyền, lợi ích về tài sản, nhân thân và các quan hệ pháp luật khác của cá nhân mất tích, của chủ thể có liên quan khác khi hoàn toàn không có tin tức xác thực về cá nhân này. Do đó, khi các thông tin về cá nhân được khôi phục do cá nhân trở về hoặc có tin tức xác thực là cá nhân còn sống thì rõ ràng, việc áp dụng những điều luật, quy định về cá nhân mất tích là không còn phù hợp. Do đó, trong trường hợp này, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích, căn cứ theo yêu cầu của chính họ hoặc của người có liên quan.
Trong quan hệ tài sản, cá nhân được nhận lại tài sản từ người quản lý và có nghĩa vụ trả các chi phí cần thiết cho việc quản lý tài sản. Trong quan hệ hôn nhân, nếu đã có quyết định ly hôn có hiệu lực của Tòa án trong thời gian họ mất tích thi quyết định này vẫn giữ nguyên hiệu lực pháp luật mà không bị hủy bỏ.
Cũng tương tự như đối với trường hợp tuyên bố cá nhân mất tích, khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ, quyết định này cũng phải được gửi, lưu trữ và ghi chú tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật.
Quy định này còn có điểm bất cập chưa hợp lý. Đó là hậu quả pháp lý về việc được nhận lại tài sản và phải trả chi phí cho người quản lý tài sản chỉ mang tính thực thi với trường hợp cá nhân trở về và năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Nếu chỉ dừng lại ở có tin tức xác thực hoặc trở về nhưng không trong khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì việc nhận lại tài sản, trả chi phi quản lý là không phù hợp.
Điều 69 Bộ luật dân sự năm 2015 kế thừa quy định tại Điều 80 Bộ luật dân sự năm 2005, có bổ sung thêm yếu tố ghi chủ quyết định hủy bỏ của Tòa án, nhằm nâng cao trách nhiệm quản lý của cơ quan quản lý cơ sở.
3. Quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích:
– Người đang quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú tiếp tục quản lý tài sản của người đó khi người đó bị Tòa án tuyên bố mất tích và có các quyền, nghĩa vụ sau:
+ Người quản lý tài sản có quyền: Quản lý tài sản của người vắng mặt; trích một phần tài sản của người vắng mặt để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ thanh toán nợ đến hạn, nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt và được thanh toán các chi phí cần thiết trong việc quản lý tài sản của người vắng mặt.
+ Người quản lý tài sản có nghĩa vụ: Giữ gìn, bảo quản tài sản của người vắng mặt như tài sản của chính mình; bán ngay tài sản là hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng; thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ đến hạn, nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt bằng tài sản của người đó theo quyết định của Tòa án. Khi người vắng mặt trở thì phải giao lại tài sản cho người đó và phải thông báo cho Tòa án biết; phải bồi thường nếu có lỗi trong việc quản lý tài sản mà gây thiệt hại.
– Nếu Tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản. Người quản lý tài sản phải đảm bảo bảo quản tài sản mà mình thực hiện quản lý được nguyên vẹn và bảo vệ đúng pháp luật cho đến khi người mất tích trở về hoặc có quyết định xử lý tài sản của Tòa án.
Như vậy, pháp luật dân sự nước ta đã quy định rõ các trường hợp được tuyên bố mất tích và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố mất tích. Theo đó, một cá nhân biệt tích 02 năm liền trở lên, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cũng như Tòa án đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết của người này thì Tòa án nhân dân được yêu cầu có thể tuyên bố người đó mất tích để tiến hành giải quyết các quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến người mất tích này. Sau khi cá nhân bị tuyên bố là mất tích thì các mối quan hệ pháp luật liên quan cũng như tài sản của người này được xử lý theo quy định của Bộ luật dân sự về người mất tích.