Vấn đề này được quy định tại Luật hôn nhân và gia đình 2014 và Nghị định 10/2015/NĐ-CP.
Mang thai hộ là một vấn đề phức tạp, bao gồm mối quan hệ của nhiều chủ thể, mới được pháp luật Việt Nam ghi nhận trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2015. Mang thai hộ không chỉ đòi hỏi chi phí cũng như trình độ khoa học kỹ thuật cao, mà còn đòi hỏi các chủ thể cần phải chuẩn bị đầy đủ cả về y tế, pháp lý và tâm lý.
Theo đó, việc thực hiện tư vấn các vấn đề trên trước khi tiến hành mang thai hộ là một thủ tục bắt buộc theo quy định của Nghị định 10/2015/NĐ-CP Quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 3 năm 2015.
Thứ nhất, trách nhiệm tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý được quy định tại Điều 18: “Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ phải tổ chức tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý cho vợ chồng nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ”.
Các cơ sở này chỉ không phải tổ chức tư vấn về các lĩnh vực trên trong trường hợp vợ chồng nhờ mang thai hộ hoặc người mang thai hộ có một trong các Bản xác nhận sau:
– Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ làm việc tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm;
– Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có thẩm quyền, trách nhiệm tư vấn tâm lý làm việc tại cơ sở được cấp giấy phép hoạt động có phạm vi hoạt động chuyên môn tư vấn tâm lý;
– Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp lý của người có thẩm quyền, trách nhiệm tư vấn pháp lý làm việc tại tổ chức có tư cách pháp nhân về trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật.
Thứ hai, người tư vấn về y tế phải là bác sỹ chuyên khoa sản và tư vấn đầy đủ các nội dung như sau:
Với cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ:
– Các phương án khác ngoài việc mang thai hộ hoặc xin con nuôi;
– Quá trình thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ;
– Các khó khăn khi thực hiện mang thai hộ;
– Tỷ lệ thành công của kỹ thuật có thể rất thấp nếu dự trữ buồng trứng của người vợ thấp hoặc người vợ trên 35 tuổi;
– Chi phí điều trị cao;
– Khả năng đa thai;
– Khả năng em bé bị dị tật và có thể phải bỏ thai;
– Các nội dung khác có liên quan.
Với người mang thai hộ:
– Các nguy cơ, tai biến có thể xảy ra khi mang thai như sảy thai, thai ngoài tử cung, băng huyết sau sinh và các tai biến khác;
– Khả năng phải mổ lấy thai;
– Khả năng đa thai;
– Khả năng em bé bị dị tật và phải bỏ thai;
– Các nội dung khác có liên quan.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Thứ ba, người tư vấn về pháp lý phải có trình độ cử nhân luật trở lên và tư vấn đầy đủ các nội dung như sau:
– Xác định cha mẹ con.
– Quyền, nghĩa vụ của người mang thai hộ.
– Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ.
– Các nội dung khác có liên quan.
Thứ tư, người tư vấn về tâm lý phải có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên và tư vấn đầy đủ các nội dung như sau:
Với cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ:
– Các vấn đề về tâm lý trước mắt và lâu dài của việc nhờ mang thai hộ, người thân và bản thân đứa trẻ sau này;
– Người mang thai hộ có thể có ý định muốn giữ đứa bé sau sinh;
– Hành vi, thói quen của người mang thai hộ có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của đứa trẻ;
– Tâm lý, tình cảm khi nhờ người mang thai và sinh con;
– Thất bại và tốn kém với các đợt điều trị mang thai hộ có thể gây tâm lý căng thẳng, mệt mỏi;
– Các nội dung khác có liên quan.
Với người mang thai hộ:
– Tâm lý, tình cảm của người trong gia đình, bạn bè trong thời gian mang thai hộ;
– Tâm lý trách nhiệm đối với cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ nếu để sảy thai;
– Tác động tâm lý đối với con ruột của mình;
– Cảm giác mất mát, mặc cảm sau khi trao lại con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai;
– Chỉ thực hiện mang thai hộ khi động lực chính là mong muốn giúp đỡ cho cặp vợ chồng nhờ mang thai, không vì mục đích lợi nhuận;
– Các nội dung khác có liên quan.
Người tư vấn về y tế hoặc pháp lý hoặc tâm lý phải ký, ghi rõ họ tên, chức danh, địa chỉ nơi làm việc và ngày tư vấn vào bản xác nhận nội dung tư vấn và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc xác nhận của mình.