Pháp luật hình sự nước ta hiện nay thể hiện nhiều chính sách khoan hồng, nhân đạo cho người phạm tội con đường được sống và có cơ hội hoàn lương. Vậy câu hỏi đặt ra: Trường hợp nào án tử hình sẽ được chuyển thành tù chung thân?
Mục lục bài viết
1. Quy định của pháp luật về chuyển từ án tử hình sang tù chung thân:
1.1. Khái quát chung về hình phạt tử hình:
Trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam, tử hình được xem là hình phạt nghiêm khắc nhất và thể hiện mức độ chính trị cao nhất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với người phạm tội bởi lẽ nó cướp đi quyền sống của người bị kết án và loại bỏ sự tồn tại của họ trong xã hội. Tử hình là hình phạt đặc biệt, hình phạt tử hình có khả năng tước bỏ quyền sống của người bị kết án phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy thi hành án hình phạt tử hình mang một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, thi hành hình phạt tử hình là việc làm trên thực tế tước đi quyền sống của người phạm tội, cho nên cơ quan thi hành án phải tuân thủ những quy định hết sức nghiêm ngặt, chặt chẽ. Đây là đặc điểm chủ yếu để phân biệt hoạt động thi hành hình phạt tử hình so với các hoạt động thi hành án khác.
Thứ hai, khác với việc thi hành các hình phạt, biện pháp tư pháp khác, nếu thi hành hình phạt tử hình có sai lầm thì không khắc phục được hậu quả. Đặc điểm này bắt nguồn từ bản chất của hình phạt tử hình là tước đi mạng sống của người bị kết án, vì vậy, nếu như thi hành không đúng đối tượng bị kết án thì sai lầm này không thể khắc phục được.
Thứ ba, vaiệc thi hành hình phạt tử hình không những tước đi mạng sống của người bị kết án mà còn gây đau thương mất mát cho người thân của họ đồng thời còn gây tâm lí tiêu cực nhất định lên những cá nhân trực tiếp thực hiện việc thi hành án tử hình. Đây là đặc điểm chúng ta cần lưu ý khi thực hiện công tác tư tưởng đối với người thân của người bị kết án cũng như đối với cán bộ chiến sĩ trực tiếp làm nhiệm vụ cướp đi sinh mạng của người bị kết án.
1.2. Trường hợp nào tử hình được chuyển thành tù chung thân hay không?
Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, căn cứ theo quy định tại Điều 40 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về hình phạt tử hình, cụ thể như sau:
– Hình phạt tử hình là loại hình phạt đặc biệt quan trọng, hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của pháp luật thuộc một trong các nhóm tội phạm xâm phạm đến an ninh quốc gia, nhóm tội phạm xâm phạm đến tính mạng con người, các tội phạm về ma túy hoặc tham nhũng, một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015;
– Không áp dụng hình phạt tử hình đối với các chủ thể được xác định là người dưới 18 tuổi phạm tội, những đối tượng được xác định là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tù, người cao tuổi được xác định là những đối tượng từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử;
– Không thi hành hình phạt tù đối với những người bị kết án nếu họ được xác định là một trong những đối tượng thuộc trường hợp sau đây:
+ Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;
+ Người đủ 75 tuổi trở lên;
+ Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
Trong trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật hình sự năm 2015 hoặc trường hợp người bị kết án tử hình nay được ân giảm theo quy định của pháp luật tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì hình phạt tử hình sẽ được chuyển sang hình phạt tù chung thân.
Như vậy theo phân tích ở trên, các đối tượng sẽ được chuyển từ hình phạt tử hình sang tù chung thân trong một số trường hợp sau:
– Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;
– Người đủ 75 tuổi trở lên;
– Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn;
– Hoặc người bị kết án tử hình được ân giảm.
2. Thời gian chấp hành hình phạt tối thiểu của người bị kết án tử hình nhưng được chuyển thành tù chung thân:
Căn cứ theo quy định tại Điều 63 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên, cụ thể như sau:
– Các đối tượng được xác định là người bị kết án cải tạo không giam giữ theo quy định của pháp luật hoặc phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và nhận thấy có nhiều tiến, các đối tượng này cũng đã tiến hành hoạt động bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, tòa án có thể ra quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Thời gian chấp hành hình phạt để được xem xét giảm lần đầu là 1/3 thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân;
– Một người có thể được giảm hình phạt nhiều lần tuy nhiên phải đáp ứng theo yêu cầu của pháp luật, phải đảm bảo chấp hành được ít nhất 1/2 hình phạt đã tuyên ban đầu;
– Người bị kết án tù chung thân mọi cơ quan nhà nước có thẩm quyền lần đầu sẽ được giảm xuống 30 năm tù và mặc dù được giảm án nhiều lần nhưng cũng cần phải đảm bảo thời hạn thực tế chấp hành hình phạt tù là 20 năm;
– Trường hợp người bị kết án về nhiều tội khác nhau theo quy định của pháp luật trong đó có tội bị kết án được xác định là hình và tù chung thân thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền là tòa án sẽ chỉ xem xét giảm hình phạt lần đầu xuống 30 năm sau khi các đối tượng đã chấp hành được 15 năm tù trên thực tế và dù được giảm nhiều lần tuy nhiên vẫn phải đảm bảo thời gian thực tế chấp hành hình phạt tù là 25 năm;
– Đối với những đối tượng là người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới thuộc loại tội ít nghiêm trọng do lỗi cố ý thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án sẽ chỉ xem xét giảm lần đầu sau khi các đối tượng đó đã chấp hành, Đối với những đối tượng là người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới thuộc loại tội ít nghiêm trọng do lỗi cố ý thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án sẽ chỉ xem xét giảm lần đầu sau khi các đối tượng đó đã chấp hành được 1/2 mức hình phạt chung;
– Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới thuộc loại tội nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án sẽ chỉ xem xét làm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được ít nhất 2/3 mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xem xét giảm án sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật; đối với những chủ thể bị kết án tù chung thân được ân giảm bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc người bị kết án tử hình thuộc các trường hợp căn cứ theo quy định tại Điều 40 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì thời hạn đã chấp hành hình phạt để được xem xét làm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.
Như vậy, như phân tích ở trên thì đối với người bị kết án tử hình đã được chuyển sang tù chung thân thì thôi hạn chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu được xác định là 25 năm, mặc dù trên thực tế được giảm nhiều lần tuy nhiên vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.
3. Người bị kết án tử hình được chuyển thành tù chung thân có được tha tù trước thời hạn hay không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 66 Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về điều kiện tha tù trước thời hạn như sau:
– Không áp dụng quy định của Điều này đối với người bị kết án thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Người bị kết án về một trong các tội quy định tại Chương XIII, Chương XXVI, Điều 299 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); người bị kết án 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương XIV của Bộ luật này do cố ý hoặc người bị kết án 07 năm tù trở lên đối với một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 248, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
+ Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
– Theo đề nghị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thi hành án hình sự, tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù;
– Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách, thì tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành. Nếu người đó thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách thì tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
– Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chấp hành được ít nhất là 1/2 thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
Như vậy, theo điều luật trên có thể nói, người bị kết án tử hình nhưng được chuyển thành tù chung thân thì sẽ không được tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).