Vấn đề thừa kế cũng có vị trí đặc biệt quan trọng trong các chế định pháp luật. Vậy theo quy định của pháp luật, trường hợp nào sẽ bị hạn chế quyền thừa kế?
Mục lục bài viết
1. Trường hợp nào bị hạn chế quyền thừa kế?
Pháp luật hiện nay đã có những quy định cụ thể về việc hạn chế quyền thừa kế của người nhận thừa kế và hạn chế quyền để lại thừa kế của người lập di chúc. Căn cứ theo quy định tại Điều 609 của Bộ luật dân sự năm 2015, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản theo mong muốn và nguyện vọng của mình, có quyền để lại tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình cho những người thừa kế theo pháp luật, và có quyền hưởng di sản của người chết để lại theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đối với những người thừa kế không là cá nhân thì sẽ có quyền hưởng di sản thừa kế mà người chết để lại theo di chúc. Căn cứ theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015, cụ thể là tại Điều 621, có thể kể đến một số trường hợp bị hạn chế quyền hưởng thừa kế như sau:
– Người bị kết án về các tội liên quan đến hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng và sức khỏe, người bị kết án về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, có hành vi hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự và nhân phẩm của người để lại di sản;
– Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản trên thực tế; người có hành vi lừa dối hoặc cưỡng ép dưới bất kỳ hình thức nào, người có hành vi ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, có hành vi giả mạo di chúc hoặc sửa chữa di chúc, hủy bỏ di chúc trái quy định của pháp luật, Che giấu di chúc nhằm mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người chết;
– Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng của những người đồng thừa kế khác nhằm mục đích thực hiện hành vi trái pháp luật, hướng đến mục tiêu mong muốn được hưởng một phần hoặc hưởng toàn bộ di sản mà những người thừa kế đó có quyền được hưởng.
Ngoài ra căn cứ theo quy định tại Điều 626 của Bộ luật dân sự năm 2015, những người thừa kế còn bị hạn chế quyền thừa kế trong trường hợp bị truất quyền thừa kế theo quy định của pháp luật, cụ thể như sau:
– Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, chất quyền hưởng di sản thừa kế của những người thừa kế;
– Phân định phần di sản cho từng người thừa kế theo nguyện vọng của bản thân;
– Dành một phần trong khối di sản để thờ cúng hoặc di tặng;
– Giao nghĩa vụ cho những người thừa kế;
– Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di chúc và người phân chia di sản.
Trên đây là những trường hợp bị hạn chế quyền thừa kế theo quy định của pháp luật. Những người thuộc trường hợp này thì sẽ không được hưởng thừa kế theo quy định.
2. Quy định về hạn chế phân chia di sản thừa kế:
Căn cứ theo quy định tại Điều 610 của Bộ luật dân sự năm 2015, mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng để lại tài sản của mình cho người khác theo nguyện vọng của bản thân và có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc hưởng di sản theo pháp luật. Đây được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản xuyên suốt pháp luật thừa kế tại Việt Nam. Mọi cá nhân với tư cách là chủ sở hữu tài sản có quyền định đoạt tài sản theo ý chí của riêng mình, không phân biệt giới tính và độ tuổi, không có sự phân biệt về tình trạng sức khỏe và tôn giáo. Quy định này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của hiến pháp theo Điều 16 của Hiến pháp năm 2013, tức là mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Về nguyên tắc, những người thừa kế sẽ có quyền yêu cầu chia di sản tại thời điểm mở thừa kế, tức là tại thời điểm mà người để lại di sản qua đời. Tuy nhiên trong một số trường hợp, người thừa kế không có quyền yêu cầu phân chia tài sản theo quy định của pháp luật. Cụ thể là căn cứ theo quy định tại Điều 661 của Bộ luật dân sự năm 2015 có ghi nhận về vấn đề hạn chế phân chia di sản, cụ thể như sau:
– Trong trường hợp theo ý chí của người chết hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người đồng thừa kế, di sản mà người chết để lại được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ được phép phân chia tài sản sau khi hết thời hạn thỏa thuận đó;
– Trường hợp yêu cầu phân chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của các bên vợ chồng còn lại và ảnh hưởng đến cuộc sống chung của gia đình, thì bên còn sống theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền là tòa án xác định phần di sản là những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định để đảm bảo quyền lợi cho gia đình và người còn sống, thời hạn này không quá 03 năm được tính kể từ thời điểm mở thừa kế theo quy định của pháp luật, khi hết thời hạn 03 năm nêu trên mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình thì họ hoàn toàn có quyền yêu cầu tòa án gia hạn một lần nữa nhưng không quá 03 năm.
Như vậy có thể nói, xuất phát từ mục đích tôn trọng ý chí của các bên và bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế, tôn trọng và đề cao sự đoàn kết trong gia đình, pháp luật hiện nay giới hạn việc yêu cầu phân chia di sản của những người thừa kế trong các trường hợp sau:
– Hạn chế phân chia di sản theo ý chí của người lập di chúc.
Ví dụ: Ông A có vợ là bà B và hai người con là C và D. Khi ông A chết, trong di chúc xác định di sản của ông chỉ được chia khi C và D đều tốt nghiệp đại học. Như vậy trước khi C, D tốt nghiệp đại học sẽ không làm phát sinh sự kiện chia di sản, mặc dù di chúc đã có hiệu lực kể từ thời điểm ông A chết;
– Hạn chế phân chia di sản theo sự thỏa thuận của những người đồng thừa kế.
Ví dụ: A, B, C là người thừa kế theo pháp luật của ông A. Tại thời điểm mở thừa kế A đang làm việc tại nước ngoài. Lúc này cả ba người thỏa thuận là sẽ chia di sản khi nào A về nước. Như vậy, di sản chỉ được chia sau khi A về nước;
– Hạn chế phân chia di sản khi hoạt động này ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của một bên vợ chồng và ảnh hưởng đến cuộc sống chung của gia đình.
Ví dụ: A có vợ là B và con là C, căn nhà mà họ đang ở là tài sản riêng của ông A. Do có mâu thuẫn với gia đình nên khi ông A chết lập di chúc để lại toàn bộ di sản là căn nhà cho quỹ từ thiện, mà căn nhà là nơi cư trú duy nhất của bà B và con là C. Vì vậy bà B có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hạn chế chia di sản, để bà có thời gian chuẩn bị một nơi ở mới cho hai mẹ con.
Mặc dù vậy, việc hạn chế phân chia di sản thừa kế này chỉ là tạm thời trong một khoảng thời gian. Trong thời gian này, người người thừa kế vẫn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền là Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng, nhưng không có quyền yêu cầu chia di sản.
3. Những trường hợp hạn chế quyền của người lập di chúc:
Trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ mục tiêu đảm bảo quyền lợi của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là những người yếu thế, pháp luật hạn chế quyền định đoạt của người lập di chúc. Cụ thể bao gồm các trường hợp sau:
– Hạn chế về quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế. Căn cứ theo quy định tại Điều 615 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì người lập di chúc chỉ có quyền giao nghĩa vụ cho những người thừa kế trong phạm vi di sản và những người thừa kế được nhận, và nếu như vượt quá phạm vi đó thì phần vượt qua đó sẽ vô hiệu, tức là những người thừa kế sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ mà người chết để lại trong phần vượt quá;
– Hạn chế về những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc căn cứ theo quy định tại Điều 644 của Bộ luật dân sự năm 2015, các đối tượng thuộc trường hợp được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, mặc dù không được người chết để lại di sản nhưng họ vẫn sẽ được hưởng thừa kế 2/3 suất thừa kế theo pháp luật;
– Hạn chế về quên để lại di sản dùng vào việc thờ cúng hoặc di tặng;
– Hạn chế về quyền để lại thừa kế quyền sử dụng đất, bởi vì đất đai là loại tài sản đặc biệt có giá trị lớn, thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lí, cho nên việc để lại thừa kế quyền sử dụng của loại tài sản đặc biệt này cũng có những quy định riêng;
– Hạn chế về việc đặt điều kiện trong di chúc, bởi vì pháp luật thừa kế Việt Nam hiện nay không có quy định nào về việc người lập di chúc có quyền đặt điều kiện với người thừa kế theo di chúc như điều kiện phát sinh quyền thừa kế hay điều kiện chấm dứt quyền thừa kế.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015.