Tai nạn giao thông luôn luôn được xem là một trong những rủi ro lớn nhất đe dọa đến tính mạng và sức khỏe của con người. Dưới đây là trách nhiệm pháp lý mà các bên phải gánh chịu khi xảy ra tai nạn giao thông.
Mục lục bài viết
1. Trách nhiệm pháp lý từng bên khi xảy ra tai nạn giao thông:
Pháp luật hiện nay đã có những quy định cụ thể về trách nhiệm pháp lý cho các bên khi xảy ra tai nạn giao thông. Trước hết, trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại trong vụ án liên quan đến tai nạn giao thông mang đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Căn cứ theo quy định tại Điều 601 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì có thể thấy, các phương tiện giao thông vận tải cơ giới sẽ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ, vì vậy cho nên các đối tượng được xác định là chủ sở hữu và người chiếm hữu, người sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý về vấn đề bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi. Có thể kể đến trách nhiệm pháp lý khi xảy ra tai nạn giao thông như sau:
Thứ nhất, trách nhiệm liên quan đến tài sản, căn cứ theo quy định tại Điều 589 của Bộ luật dân sự năm 2015 có liệt kê về các thiệt hại liên quan đến tài sản mà bên gây ra thiệt hại cần phải bồi thường bao gồm:
– Các loại tài sản bị mất hoặc tài sản bị hủy hoại và các loại tài sản bị hư hỏng;
– Các lợi ích gắn liền với việc sử dụng và khai thác tài sản khi bị mất hoặc bị giảm sút;
– Chi phí hợp lý để tiến hành hoạt động ngăn chặn và khắc phục thiệt hại xảy ra trên thực tế.
Thứ hai, trách nhiệm pháp lý liên quan đến sức khỏe và tính mạng, căn cứ theo quy định tại Điều 590 và Điều 591 của Bộ luật dân sự năm 2015 về các khoản bồi thường như sau:
– Các chi phí bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, bao gồm: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại, chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị … và thiệt hại khác do luật quy định;
– Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
– Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
– Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận, nếu như các bên không thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá 100 lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định.
2. Trường hợp người gây tai nạn chết thì chịu trách nhiệm như thế nào?
Thứ nhất, trong trường hợp người gây tai nạn được xác định là chủ xe. Trường hợp lái xe đồng thời là chủ xe tử vong, thì cơ quan điều tra sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành các hoạt động điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án đối với lái xe đã tử vong. Nếu tai nạn hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc tai nạn do tình huống bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết thì người bị thiệt hại sẽ không được bồi thường. Ngược lại thì người bị thiệt hại sẽ được bồi thường và người gây ra tai nạn bị chết thì những người thừa kế của người này có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong phạm vi di sản thừa kế mà người đã chết để lại theo khoản 1 Điều 615 Bộ luật dân sự 2015, theo đó, những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Như vậy, mặc dù vụ án bị đình chỉ nhưng chủ xe gây ra tai nạn giao thông vẫn phải chịu các trách nhiệm pháp lý nêu trên. Do chủ xe đã chết nên chỉ chịu các trách nhiệm dân sự về bồi thường về tài sản và sức khỏe cho người bị hại và những người thừa kế của người gây tai nạn có trách nhiệm.
Thứ hai, trong trường hợp người gây tai nạn không phải là chủ xe. Đây là trường hợp người lái xe gây tai nạn là người chiếm hữu sử, dụng phương tiện khi tham gia giao thông nhưng không phải chủ xe, thì nghĩa vụ của chủ xe phát sinh theo Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015. Tức là củ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu chủ xe cho người khác mượn xe gây tai nạn mà người này đáp ứng các điều kiện lái xe tham gia giao thông, đảm bảo độ tuổi, sức khoẻ và có giấy phép lái xe phù hợp với loại xe được phép điều khiển thì người mượn xe có trách nhiệm bồi thường. Chủ xe chỉ phải bồi thường nếu giữa các bên có thoả thuận về việc chủ xe sẽ chịu trách nhiệm ngay cả khi đã giao xe cho người khác sử dụng mà gây tai nạn. Trường hợp xảy ra tai nạn do hành vi vi phạm luật giao thông của người lái xe thì người này sẽ phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015.
Tuy nhiên, trong trường hợp người lái xe chết thì vụ án cũng sẽ bị đình chỉ và những người thừa kế của người gây tai nạn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong phạm vi di sản người chết để lại. Ngoài ra, trường hợp chủ sở hữu giao xe cho người không đủ điều kiện điều khiển xe tham gia giao thông sẽ bị xử phạt hành chính theo Điều 30
3. Trách nhiệm hình sự liên quan đến hành vi gây tai nạn giao thông:
Ngoài việc phải bồi thường cho người bị hại, trong trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông vi phạm quy định của pháp luật gây ra hậu quả nghiêm trọng đến tính mạng và sức khỏe hoặc tài sản của người khác thì hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm luật giao thông đường bộ căn cứ theo quy định tại Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015. Chủ thể của tội phạm được quy định là người tham gia giao thông đường bộ, gồm: Người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ. Trong đó, người điều khiển phương tiện gồm người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ. Hành vi khách quan của loại tội phạm này là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, những quy định mà người tham gia giao thông phải chấp hành để tránh gây thiệt hại cho người khác, có thể là thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe hoặc về tài sản. Những quy định này có tính chất bắt buộc cho tất cả người tham gia giao thông đường bộ, trong đó có tốc độ di chuyển trên đường. Hậu quả của tội vi phạm về tham gia giao thông đường bộ được quy định có thể là:
– Hậu quả chết người;
– Hậu quả thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 01 người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
– Hậu quả thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng trở lên;
– Hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của hai người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61%.
Hậu quả trên đây đòi hỏi phải có mối quan hệ nhân quả với hành vi khách quan của tội phạm. Lỗi được xác định là lỗi vô ý. Người thực hiện hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ không mong muốn cho hậu quả thiệt hại xảy ra mà tin hậu quả đó không xảy ra hoặc không thấy trước được hậu quả đó do cẩu thả. Theo đó thì điều luật này quy định 4 khung hình phạt chính và 1 khung hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:
– Khung hình phạt cơ bản được quy định là hình phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm;
– Hai khung kính và tăng nặng được quy định là phạt tù từ 3 năm đến 10 năm và 7 năm đến 15 năm;
– Khung hình phạt bổ sung có thể được áp dụng là hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
Như vậy, khi tham gia giao thông cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn giao thông, vì khi xảy ra tai nạn thì hậu quả mang lại rất lớn về cả vật chất, sức khỏe và tinh thần. Bên cạnh những trách nhiệm về dân sự thì người gây ra tai nạn còn phải đối mặt với việc chịu nhiệm hình sự tùy theo từng trường hợp cụ thể.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).