Trách nhiệm của bên gây thiệt hại khi xảy ra tai nạn giao thông? Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Trách nhiệm của bên gây thiệt hại khi xảy ra tai nạn giao thông? Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi đi xe máy có va chạm với một em bé 5 tuổi chạy từ cổng nhà ra đường. Tôi cố tránh nhưng vẫn va quệt vào em bé đó và ngã xuống. Tôi không bị gì cả còn em bé do va chạm mạnh nên bổ xuống đường và bị tụ máu ở đầu và giãn xương hộp sọ. Vậy tôi có vi phạm không?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009
2. Nội dung tư vấn:
Theo thông tin bạn cung cấp, bạn có xảy ra va chạm với một em bé chạy từ cổng nhà ra đường, gây tụ máu ở đầu và giãn xương hộp sọ. Khoản 1 Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
"Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác."
Như vậy, cần phải xác định rõ nguyên nhân xảy ra tai nạn giao thông như thế nào để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như bạn có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không? Do đó sẽ chia các trường hợp như sau:
– Trường hợp 1: Bạn vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (đi tốc độ cao hoặc có nồng độ cồn vượt mức cho phép… ) là nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông cho cháu bé:
Nếu bạn vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng hoặc tài sản của người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sư 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 như sau:
"Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."
Về tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng " theo quy định tại Khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự được hướng dẫn tại Mục 4 Khoản 1 Mục I Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP như sau:
+ Làm chết một người;
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;
>>> Luật sư tư vấn trách nhiệm của bên gây thiệt hại khi xảy ra tai nạn giao thông: 1900.6568
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
+ Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.
Theo thông tin bạn cung cấp, bạn gây thiệt hại về sức khỏe cho cháu bé, nếu tỷ lệ thương tật của cháu từ 31% trở lên bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Nếu tỷ lệ thương tật của cháu dưới 31% thì bạn chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại
Đồng thời, bạn phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho cháu bé theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015. Các khoản bồi thường bao gồm:
+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
+ Thiệt hại khác do luật quy định.
+ Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định trên và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Hiện tại mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tại
Trường hợp 2: Nếu đây là lỗi hỗn hợp, lỗi xuất phát từ hai bên thì bạn chỉ phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi mà bạn gây ra. Đồng thời bạn có thể sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.
Trường hợp 3: Nguyên nhân xảy ra tai nạn giao thông là do cháu bé thiếu quan sát, bạn đã thực hiện các biện pháp an toàn nhưng không tránh được thì bạn sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.