Hỏi về trách nhiệm bồi thường khi đánh người gây trấn thương sọ não. Quy định về trách nhiệm hình sự với người chưa thành niên phạm tội.
Hỏi về trách nhiệm bồi thường khi đánh người gây trấn thương sọ não. Quy định về trách nhiệm hình sự với người chưa thành niên phạm tội.
Tóm tắt câu hỏi:
Kính gửi luật sư tôi muốn hỏi một việc như sau, con tôi sinh năm 1999 trên đường đi học cùng bạn bằng xe đạp điện bị 4 cháu có 1 cháu sinh năm 2000 đã nghỉ học dùng gạch đập vào đầu gây trấn thương sọ não lún sọ TD đỉnh (T), vậy em ấy có phải đi trại không và gia đình em ấy có bồi thường chi phí đi mổ và điều tri trước và về sau này nữa không?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
– Điều 584, Điều 596, Điều 587, Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015;
– Điều 12, Điều 71, Điều 74, Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999
2. Nội dung tư vấn:
Người có hành vi đánh con bạn dẫn đến trấn thương sọ não sẽ phải chịu trách nhiệm như sau:
Thứ nhất, trách nhiệm dân sự:
Theo quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015, người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại.
Thiệt hại do nhiều người cùng gây ra thì những người có hành vi dùng gạch đánh con bạn sẽ phải liên đới bồi thường tất cả những thiệt hại mà họ gây ra.
Căn cứ Điều 586 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân thì những người trên 18 tuổi phải tự bồi thường, những người chưa đủ 15 tuổi thì bố, mẹ của họ phải bồi thường. Còn với những người trên 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi thì phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu không đủ thì cha, mẹ của họ phải bồi thường phần còn thiếu.
Về mức bồi thường khi sức khỏe bị xâm hại, theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015, bao gồm các chi phí sau:
– Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
– Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
– Thiệt hại khác do luật quy định.
– Khoản bồi thường tổn thất về tinh thần: do các bên tự thỏa thuận nhưng không được vượt quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Về thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại được quy định tại Điều 593 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
"1. Trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường từ thời điểm mất hoàn toàn khả năng lao động cho đến khi chết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng từ thời điểm người có tính mạng bị xâm phạm chết trong thời hạn sau đây:
a) Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân;
b) Người thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.
3. Đối với con đã thành thai của người chết, tiền cấp dưỡng được tính từ thời điểm người này sinh ra và còn sống."
Theoo đó, bạn căn cứ vào tình trạng của con bạn trong và sau quá trình điều trị để xác định thiệt hại mà người gây ra thương tích cho con bạn phải bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, về trách nhiệm hình sự:
Theo thông tin bạn cung cấp thì con bạn bị trấn thương sọ não, tuy nhiên bạn không nêu rõ tỷ lệ thương tật của con bạn. Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:
"Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân."
>>> Luật sư tư vấn về trách nhiệm khi đánh người gây thương tích: 1900.6568
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 như sau:
"1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng."
Theo như bạn trình bày thì trong những người đánh con bạn có 1 người sinh năm 2000, bạn căn cứ độ tuổi của người đó tại thời điểm xảy ra vụ việc cũng như tỷ lệ thương tật của con bạn để xác định người đó có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?
Đối với người chưa thành niên phạm tội, theo quy định tại Điều 71 Bộ luật hình sự 1999 quy định về các hình phạt áp dụng với người chưa thành niên phạm tội bao gồm:
"Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm:
1. Cảnh cáo;
2. Phạt tiền;
3. Cải tạo không giam giữ;
4. Tù có thời hạn."
Trường hợp người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì áp dụng quy đinh tại Điều 74 Bộ luật hình sự năm 1999 như sau:
"Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt tù có thời hạn theo quy định sau đây:
1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định."
Như vậy, người đánh con bạn chưa thành niên mà có đủ yếu tố cấu thành tội phạm và căn cứ mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự thì những người đánh con bạn có thể bị áp dụng biện pháp như giáo dục tại xã; đưa vào trường giáo dưỡng hoặc là đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc tùy từng mức độ hành vi.