Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là gì? Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội trong Tiếng anh là gì? Quy định của Bộ luật hình sự về tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội?
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự là nhằm mục tiêu bảo vệ các quan hệ pháp luật được luật hình sự bảo vệ, trừng trị người phạm tội. Hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự phải là đảm bảo các nguyên tắc, quy định của pháp luật, và căn cứ vào các tình tiết khách quan để đưa ra các quyết định chính xác. Hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội được xem là tội phạm theo quy định tại Điều 368
Cơ sở pháp lý:
–
–
1. Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là gì?
Truy cứu trách nhiệm hình sự là buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội được quy định trong bộ luật hình sự mà họ đã thực hiện. Nói cách khác, truy cứu trách nhiệm hình sự là áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự qua các giai đoạn từ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đến điều tra, truy tố và xét xử để buộc người đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm phải chịu hình phạt.
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự, người có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mà mình biết rõ là không có tội.
2. Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội trong Tiếng anh là gì?
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội trong Tiếng anh là “Bringing criminal prosecution against an innocent person”.
3. Quy định của Bộ luật hình sự về tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội?
Điều 368 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau:
“1. Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Đối với từ 02 người đến 05 người;
c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
d) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
đ) Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Đối với 06 người trở lên;
b) Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Làm người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan tự sát.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
3.1. Dấu hiệu khách thể của tội phạm.
Tội phạm này không chi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố mà còn trực tiếp xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của chống và phòng ngừa tội phạm nói chung.
3.2. Dấu hiệu khách quan của tội phạm.
Hành vi khách quan của tội phạm được quy định là hành vi truy cứu người không có tội. Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, theo quy định của luật tô tụng hình sự có thể là hành vi khởi tổ bị can đối với người không có tội; hành vi phê chuẩn khởi tố bị can đối với người không có tội; hành vi để nghị truy tố bị can đối với người không có tội; hoặc hành vi truy tổ bị can đối với người không có tội.
Người không có tội là đối tượng của hành vi khách quan này gồm:
– Người không có hành vi nào thỏa mãn những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thế hay nói cách khác người không phạm tội nào đã được luật hình sự quy định (Điều 2 Bộ luật hình sự). Để xác định người nào đó là có tội phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, kể cả các quy định của phần chung cũng như các quy định của Phần các tội phạm. Cơ sở để coi người nào đó là không có tội có thể là:
+ Họ không có hành vi vi phạm nào; hoặc
+ Hành vi đã thực hiện có tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kế (khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự); hoặc
+ Người thực hiện hành vi không có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm (Điều 12, Điều 21 Bộ luật hình sự); hoặc
+ Người thực hiện hành vi gây thiệt hại có các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi (từ Điều 22 đến Điều 26 Bộ luật hình sự);
Người có hành vi phạm tội nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 27 Bộ luật hình sự) cũng được coi là loại trường hợp không có tội.
3.3. Dấu hiệu chủ quan của tội phạm.
Lỗi của người phạm tội được quy định là lỗi cố ý trực tiếp, Người phạm tội biết rõ người mình truy cứu trách nhiệm hình sự là người không có tội. Trường hợp không biết rõ người mình truy cứu trách nhiệm hình sự là người không có tội không thuộc trường hợp phạm tội này.
Trong thực tế, động cơ của người phạm tội có thể khác nhau, do thù tức, do tư lợi, do bị ép buộc,…Nhưng động cơ không được quy định là dấu hiệu định tội. Tính chất của động cơ có thể được xem xét đến khi quyết định hình phạt.
3.4. Dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội này được quy định là chủ thể đặc biệt, là người có thẩm quyền trong việc thực hiện hành vi tố tụng là truy cứu truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Đó là người có quyền ra quyết định khởi tổ bị can, phê chuẩn quyết định khởi tổ bị can; người có quyền đề nghị truy tố và người có quyền quyết định truy tố bị can trước
Khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can. Trường hợp phát hiện có người đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can hoặc trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can nếu đã yêu cầu nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
Việc điều tra kết thúc khi Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, Cơ quan điều tra phải giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can hoặc người đại diện của bị can; gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho người bào chữa;
Như vậy, chủ thể của tội phạm này có thể là Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát,…
3.5. Hình phạt áp dụng.
– Khung hình phạt cơ bản: bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất: bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm, khi có một trong các tình tiết tăng nặng sau:
+ Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.);
+ Đối với từ 02 người đến 05 người;
+ Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
+ Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm ít nghiêm trọng (là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;) hoặc tội phạm nghiêm trọng (là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù);
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: tức là ảnh hưởng, đe dọa, hoặc làm phá vỡ sự tình trạng (trạng thái) bình yên của xã hội.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ hai: bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm, khi có các tình tiết tăng nặng sau:
+ Đối với 06 người trở lên;
+ Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm rất nghiêm trọng ( là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù) hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
+ Làm người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan tự sát.
– Khung hình phạt bổ sung: bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Như vậy người phạm tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội có thể bị áp dụng mức hình phạt cao nhất là 15 năm tù.
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 đã có nhiều sự thay đổi tích cực so với