Tội ra bản án trái pháp luật là gì? Quy định của Bộ luật hình sự về tội ra bản án trái pháp luật? Hình phạt với tội ra bản án trái pháp luật như thế nào?
Bản án là kết quả của cả quá trình từ điều tra đến xét xử, là văn bản thể hiện nội dung vụ việc, nhận định của tòa, quyết định đối với cá bị cáo, người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Việc ra bản án trái pháp luật có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự nghiêm minh của hệ thống tòa án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, do đó, Bộ luật hình sự coi đó là tội phạm và quy định tại Điều 370.
Mục lục bài viết
1. Tội ra bản án trái pháp luật là gì?
Tội ra bản án trái pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội do Thẩm phán, hội thẩm cố ý ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật.
2. Quy định của Bộ luật hình sự về tội ra bản án trái pháp luật:
Điều 370 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau:
“1. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
c) Kết án oan người vô tội về tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng; người phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng;
đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Kết án oan người vô tội về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Bỏ lọt tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên;
d) Dẫn đến bị cáo, người bị hại, đương sự tự sát;
đ) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2.1. Dấu hiệu khách thể của tội phạm:
Tội ra bản án trái pháp luật không chỉ xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan xét xử mà còn có thể trực tiếp xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tập thế hoặc của Nhà nước. Các quyền và lợi ích này có thể là quyền tự do, là danh dự, là các lợi ích vật chất hoặc các lợi ích phi vật chất.
Đối tượng của tội phạm là bản án. Theo đó, bản án được hiểu là văn bản ghi nhận phán quyết của tòa khi giải quyết được được một vụ án hình sự hoặc dân sự. Bản án là sự kết thúc của cả quả quá trình từ điều tra, truy tố cho đến xét xử.
2.2. Dấu hiệu khách quan của tội phạm:
Hành vi khách quan của tội phạm được quy định là hành vi ra bản án trái pháp luật.
Bản án trái pháp luật có thể là bản án hình sự, bản án dân sự, bản án hôn nhân và gia đình, bản án lao động, bản án hành chính cũng như các bản án về các lĩnh vực khác mà tòa án có thẩm quyền xét xử. Các bản án này có thể có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo, có thể có lợi cho đương sự này nhưng không có lợi cho đương sự khác.
Tính trái pháp luật của những bản án này có thể thê hiện ở những khía cạnh rất khác nhau nhưng có thể được hiểu một cách chung nhất là: Nội dung quyết định của bản án không phù hợp với thực tế của vụ án trên cơ sở đối chiếu với pháp luật hiện hành. Sự không phù hợp đó có thể do dựa trên những tình tiết sai và dẫn đến áp dụng pháp luật sai nhưng cũng có thể dựa trên những tình tiết đúng nhưng vẫn áp dụng sai pháp luật.
Hành vi ra bản án trái pháp luật được hiểu là hành vi của thành viên hội đồng xét xử biểu quyết đồng ý với quyết định của bản án (sẽ tuyên). Theo đó, có thể có trường hợp tất cả thành viên hội đồng xét xử đều có hành vi ra bản án trái pháp luật và cũng có thể có trường hợp chi một số thành viên hội đồng xét xử có hành vi này vì thành viên khác không biểu quyết đồng ý với quyết định của bản án trái pháp luật.
2.3. Dấu hiệu chủ quan của tội phạm:
Lỗi của người phạm tội được quy định là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết rõ nội dung bản án mà mình biểu quyết đồng ý (sẽ tuyên) là trái pháp luật nhưng vẫn biểu quyết đồng ý.
Trường hợp không biết rõ bản án mà mình biểu quyết đồng ý là trái pháp luật không thuộc trường hợp phạm tội này.
Trong thực tiên, động cơ phạm tội của tội này có thể khác nhau nhưng động cơ phạm tội không phải là dầu hiệu định tội. Người phạm tội đã ra bản án trái pháp luật có thể do tu lợi, do nê nang, do thù tức v.v..
3.4. Dấu hiệu chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội ra bản án trái pháp luật được quy định là chủ thể đặc biệt, là thẩm phán và hội thẩm. Trong đó:
Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử.
Hội thẩm nhân dân là Người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
3. Hình phạt với tội ra bản án trái pháp luật như thế nào?
Điều 370 quy định 3 khung hình phạt chính và 1 khung hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:
– Khung hình phạt cơ bản: bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất: bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm, khi có một trong các tình tiết tăng nặng sau:
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
+ Kết án oan người vô tội (người không có tội- không đáp ứng các cấu thành tội phạm) về tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng;
+ Bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng; người phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng;
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
+ Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: làm cho dư luận dậy sóng, hoang mang, làm mất trật tự bình yên của xã hội.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ hai: bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm, khi có một trong các tình tiết tăng nặng sau:
+ Kết án oan người vô tội về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
+ Bỏ lọt tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên;
+ Dẫn đến bị cáo, người bị hại, đương sự tự sát;
+ Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
Trong các dấu hiệu tăng nặng trên, các thuật ngữ về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được giải thích dưới đây:
+ Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
+ Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
– Khung hình phạt bổ sung: bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Như vậy, mức hình phạt cao nhất mà người phạm tội ra bản án trái pháp luật có thể bị áp dụng là 15 năm tù.
4. Điểm tiến bộ trong Bộ luật hình sự năm 2015 so với 1985 và 1999 về tội ra bản án trái pháp luật:
Tội ra bản án trái pháp luật lần đầu tiên được quy định tại Điều 232 Bộ luật hình sự 1985 với tên gọi là tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật.
“1- Thẩm phán, hội thẩm nhân dân nào cố ý ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2- Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.”
Tội ra bản án trái pháp luật được tách ra thành một tội phạm độc lập tại điều 295 Bộ luật hình sự năm 1999:
“1. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.”
Có thể thấy rằng, ngay từ lúc xây dưng bộ luật hình sự đầu tiên, nhà nước đã đánh giá được tính chất nguy hiểm của hành vi ra bản án trái pháp luật, và xem nó là tội phạm, tuy nhiên vào thời kỳ đấy, kỹ thuật lập pháp chưa thực sự tốt. Đánh dấu sự thay đổi của tội phạm này đó là việc tách tội ra bản án trái pháp luật thành một tội phạm độc lập tại Bộ luật hình sự năm 1999 và 2015. Tuy nhiên hạn chế trong quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999 là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không được quy định một cách rõ ràng, khi chỉ xác định về tính chất nghiêm trọng mà không quy định rõ như Bộ luật hình sự năm 2015.