Tại ngoại chính là hình thức áp dụng đối với đối tượng đang có quyết định điều tra của cơ quan Điều tra nhưng sẽ không bị tạm giam. Ngược lại, trường hợp bị can, bị cáo không được tại ngoại khi những đối tượng này thuộc trường hợp phải tạm giam. Vậy các trường hợp nào bị can, bị cáo không được tại ngoại?
Mục lục bài viết
1. Các trường hợp nào bị can, bị cáo không được tại ngoại?
Theo đúng quy trình, nếu một người có quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát thì Cơ quan điều tra sẽ tiến hành việc tạm giam bị can để thực hiện các công tác điều tra, tránh trường hợp người này có hành vi bỏ trốn khỏi nơi cư trú, tiếp tục hành vi phạm tội hay xóa dấu vết phạm tội…Tuy nhiên vẫn có các trường hợp mà căn cứ theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, nhân thân của người phạm tội mà cơ quan chức năng có thể xem xét để không phải tạm giam những người này đây chính là được cho tại ngoại. Như vậy, tại ngoại chính là hình thức áp dụng đối với đối tượng đang có quyết định điều tra của cơ quan Điều tra nhưng sẽ không bị tạm giam. Ngược lại, trường hợp bị can, bị cáo không được tại ngoại khi những đối tượng này thuộc trường hợp phải tạm giam.
Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về tạm giam như sau:
– Tạm giam có thể áp dụng đối với các bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
– Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự hiện hành quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vẫn vi phạm;
+ Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc là không xác định được lý lịch của bị can;
+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc là có dấu hiệu bỏ trốn;
+ Tiếp tục phạm tội hoặc là có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp những tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán đi những tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù những người làm chứng, bị hại, những người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
– Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự hiện hành quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
– Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, những người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và có lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp:
+ Bỏ trốn và đã bị bắt theo quyết định truy nã;
+ Có tiếp tục phạm tội;
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp những tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán đi những tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, những người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
+ Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu như mà không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Căn cứ quy định vừa nêu trên thì có thể hiểu các trường hợp bị can, bị cáo không được tại ngoại bao gồm:
– Trường hợp 1: bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng
– Trường hợp 2: bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự hiện hành quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp dưới đây:
+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vẫn vi phạm;
+ Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc là không xác định được lý lịch của bị can;
+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc là có dấu hiệu bỏ trốn;
+ Tiếp tục phạm tội hoặc là có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp những tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán đi những tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù những người làm chứng, bị hại, những người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
– Trường hợp 3: bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự hiện hành quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
– Trường hợp 4: bị can, bị cáo là những người phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng ở trong những trường hợp dưới đây:
+ Bỏ trốn và đã bị bắt theo quyết định truy nã;
+ Có tiếp tục phạm tội;
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp những tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán đi những tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, những người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
+ Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu như mà không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
2. Quy định về chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của bị can, bị cáo không được tại ngoại:
Căn cứ Điều 120 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì việc chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của bị can, bị cáo không được tại ngoại được quy định như sau:
– Trường hợp bị can, bị cáo không được tại ngoại có người thân thích là người tàn tật, già yếu, có nhược điểm về tâm thần mà không có người chăm sóc thì khi đó cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam giao người đó cho chính những người thân thích khác chăm nom; trường hợp không có những người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc là quyết định tạm giam giao những người đó cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi mà họ cư trú chăm nom. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là con của bị can, bị cáo không được tại ngoại thực hiện theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.
– Trường hợp bị can, bị cáo không được tại ngoại có nhà ở hoặc tài sản khác mà không có người bảo quản thì khi đó cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam phải áp dụng những biện pháp bảo quản.
– Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam thông báo cho bị can, bị cáo không được tại ngoại biết việc chăm nom, chăm sóc người thân thích và bảo quản tài sản của chính họ. Việc thông báo được lập văn bản và đưa vào hồ sơ vụ án.
3. Cơ quan thẩm quyền giải quyết việc xin tại ngoại của bị can, bị cáo:
Thông qua ba hình thức bảo lĩnh, đặt tiền đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú bị cáo, bị can có thể được tại ngoại. Chính vì thế, bị cáo, bị can hoặc người thân có thể thông qua các cơ quan có thẩm quyền sau:
– Bão lĩnh: những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là người có quyền ra quyết định bảo lĩnh. Quyết định của chính những người quy định ở tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
– Đặt tiền đảm bảo: những người có thẩm quyền quy định ở tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là người có quyền ra quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm. Quyết định của chính những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
– Cấm đi khỏi nơi cư trú: Những người mà có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Đồn trưởng Đồn biên phòng là người có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
THAM KHẢO THÊM: