Đặc điểm xung đột xã hội ở nước ta? Phân loại xung đột xã hội ở nước ta? Nguyên nhân của xung đột xã hội ở nước ta hiện nay?
Mục lục bài viết
1. Đặc điểm xung đột xã hội ở nước ta:
Một trong những yêu cầu của việc xây dựng quan điểm, định hướng, các giải pháp phòng ngừa và giải quyết xung đột xã hội ở nước ta hiện nay là phải xác định, mô tả thật khách quan, đúng thực chất, rõ ràng tình hình xung đột xã hội, các đặc điểm, hình thức, các lĩnh vực, các dạng biểu hiện và phạm vi, mức độ biểu hiện của xung đột xã hội ở nước ta hiện nay, hay nói cách khác là xác định “hiện thực” trong xã hội ta. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, bởi lẽ việc thấu hiểu đúng đắn, đầy đủ, khách quan vấn đề này là một trong những cơ sở thực tiễn để chúng ta đưa ra những quan điểm, định hướng và các giải pháp đúng đắn để phòng ngừa, giải quyết xung đột có hiệu quả.
Những đặc điểm của tình hình xung đột xã hội ở nước ta hiện nay
– Không tách rời tình hình chung của đất nước, xung đột xã hội gắn liền với các điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội ta hiện nay, mang tính chuyển đổi.
– Xung đột xã hội hiện diện với những mức độ khác nhau trong tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống, xã hội.
– Các cuộc xung đột xã hội ở nước ta xuất phát và gắn liền với những mâu thuẫn nội bộ chủ yếu là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế – xã hội giữa nhà nước và người dân; giữa cộng đồng dân cư với nhau; giữa dân cư với cán bộ trong tổ chức Đảng, chính quyền; giữa nhân dân địa phương với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan đến lợi ích của cộng đồng dân cư.
– Những xung đột xã hội có nội dung đấu tranh, đòi hỏi về dân chủ, công khai, công bằng trong thực hiện các quyền, nghĩa vụ và chống quan liêu, tham nhũng, làm sai chính sách, pháp luật của cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức Nhà nước có chiều hướng tăng.
– Dễ bị các đối tượng thù địch trong và ngoài nước lợi dụng để tăng cường các hoạt động chống phá nước ta.
– Tình hình xung đột xã hội ở nước ta có mối liên hệ chặt chẽ với nguyên tắc đồng thuận, có sự chuyển đổi thuận nghịch lẫn nhau, gắn kết lẫn nhau như hai mặt trong quá trình phát triển.
2. Phân loại xung đột xã hội ở nước ta:
2.1. Theo lĩnh vực biểu hiện của xung đột xã hội:
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế – xã hội, mâu thuẫn và xung đột xã hội đang có chiều hướng gia tăng trên rất nhiều lĩnh vực, tính chất của các xung đột xã hội cũng ngày càng phức tạp. Ngoài ra, cuộc sống nhiều áp lực, căng thẳng khiến con người dễ bị tổn thương về mặt tâm lý, bị ức chế, dễ dẫn đến xung đột xã hội:
– Trong lĩnh vực kinh tế tranh chấp đất đai (giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể, giữa cá nhân với các cơ quan quản lý nhà nước, giữa các cộng đồng, nhóm người với nhau về giải tỏa, đền bù); tranh chấp hợp đồng kinh tế; phân chia tài sản, ....
– Trong lĩnh vực chính trị – tư tưởng: thời kì bùng nổ thông tin, người dân được tiếp cận với nhiều kênh thông tin ở khắp mọi nơi, chính thống có, phi truyền thống có nên cách nhìn nhận, đánh giá, bình luận của cộng đồng, các nhóm người và chính người dân cũng có xu thế đa biến hơn, phức tạp hơn, tích cực hơn, công khai hơn, có tính phản biện hơn và nhiều khi quyết liệt hơn dẫn đến một vấn đề về tư tưởng – chính trị sẽ có cái nhìn đa chiều hơn.
– Trong lĩnh vực xã hội: chính sách, chế độ xã hội và thực hiện chính sách. Những xung đột này thường xảy ra giữa các cá nhân, các nhóm dân cư, các nhóm xã hội với các cơ quan thực thi chính sách, pháp luật ở địa phương.
Sự đòi hỏi của người dân không được giải quyết một cách thỏa đáng các vấn đề của mình cũng có thể dẫn tới xung đột xã hội.
– Trong lĩnh vực y tế (giữa bệnh nhân, người nhà bệnh nhân với bác sĩ, với cơ quan y tế). Nhiều xung đột cũng xảy ra giữa các cộng đồng dân cư (làng, xóm, dòng họ ...) với các cơ quan thực thi quyền lực.
– Trong lĩnh vực giao thông, xung đột xảy ra khá phổ biến, nhất là ở các đô thị lớn (do mật độ giao thông đông, người sử dụng phương tiện giao thông chưa có ý thức, văn hóa thấp kém của người tham gia giao thông, tình trạng tắc đường); thu phí BOT; đền bù giải phóng mặt bằng, ...
– Trong lĩnh vực giáo dục: dạy thêm học thêm, các khoản phí; trường công trường tư; chi phí và chất lượng, chất lượng và bằng cấp;
– Trong lĩnh vực văn hóa, các xung đột diễn ra trong các lễ hội (như lễ hội đền Trần, lễ hội đền Gióng...). Những vụ việc tranh chấp, xô xát liên quan đến các di tích lịch sử văn hóa, cơ sở thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo không phải là ít.
– Trong lĩnh vực tôn giáo: tranh chấp về đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự, truyền đạo trái pháp luật, vi phạm luật pháp hiện hành về tôn giáo, chứ không phải do nguyên nhân xung đột về niềm tin tôn giáo.
– Trong lĩnh vực môi trường: xung đột giữa các cộng đồng dân cư với các công ty, doanh nghiệp hủy hoại môi trường. Trong thời gian tới, dưới tác động của ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, các thảm họa môi trường, thảm họa do thiên tai mang lại sẽ có nhiều hơn các cuộc xung đột xã hội trong lĩnh vực môi trường.
– Trong gia đình: xung đột giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em. Những xung đột xã hội ở cấp độ cá nhân, gia đình đang ngày càng mở rộng và phức tạp.
– Trong quan hệ lao động giữa người lao động và chủ sử dụng lao động: tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể liên quan đến hợp đồng lao động, tiền công, thời gian làm thêm, điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội; vấn đề đình công.
2.2. Theo phạm vi chủ thể:
– Xung đột xã hội tổng thể giữa Nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong xã hội (xung đột giữa chính quyền và người dân). Nguyên nhân: Sự yếu kém của hệ thống chính trị ở cơ sở tại một số địa phương; sự thoái hóa biến chất của một số cán bộ, cả cán bộ lãnh đạo, quản lý; tình trạng chính quyền quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, cố ý làm sai chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; cách giải quyết những đòi hỏi, bức xúc, nguyện vọng của nhân dân không hợp tình, không hợp lý, không dứt điểm; sự sai sót trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong nội bộ nhân dân; sự bất cập trong việc thực thi pháp luật
– Xung đột xã hội giữa các nhóm dân cư, các nhóm trong xã hội. Cạnh tranh là chất xúc tác có tác dụng kích thích tính năng động sáng tạo, huy động tối đa tiềm lực trí tuệ của con người, cộng đồng và xã hội. Song cạnh tranh cũng làm xuất hiện những thứ không lành mạnh như chủ nghĩa cá nhân cực đoan, tính cơ hội và nói chung là thói ích kỷ, sự xấu xa vốn là mặt trái trong bản năng của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhận xét: “mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng”. Mâu thuẫn và xung đột xã hội cũng từ đây mà ra. Mọi mâu thuẫn xã hội đều có nguồn gốc từ mâu thuẫn giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng, tầng lớp, giai cấp, quốc gia mà ra. Theo “Từ điển sơ lược xã hội học”, xung đột xã hội là giai đoạn phát triển cao nhất của mâu thuẫn trong hệ thống các quan hệ giữa con người, các tập đoàn xã hội, các thiết chế xã hội, xã hội nói chung, được đặc trưng bằng sự đẩy mạnh các khuynh hướng và lợi ích đối lập nhau giữa các cộng đồng xã hội và các cá nhân với nhau.
– Xung đột giữa các tập đoàn, doanh nghiệp với người lao động: Trong điều kiện kinh tế thị trường, khi sức lao động là hàng hóa được lưu thông trên thị trường, người mua và người bán hàng hóa đều có mục đích riêng của mình, người lao động muốn bán hàng hóa sức lao động do mình sở hữu với giá cao nhất, người sử dụng sức lao động (tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp) lại muốn mua sức lao động với giá rẻ nhất nhằm tăng lợi nhuận thu được. Nếu tiền công đưa ra được cả hai bên chấp nhận thì quan hệ lao động hình thành và duy trì. Nhưng nếu một trong hai bên bội ước thì dẫn đến xâm hại lợi ích của nhau. Tuy nhiên, người sử dụng lao động lại có nhiều lợi thế hơn để ép người lao động phải chịu thiệt thòi về lợi ích, cụ thể là không đáp ứng đầy đủ các cam kết về lương, bảo hiểm, các điều kiện làm việc cho người lao động điều này làm nảy sinh xung đột giữa các bên dẫn đến việc sản xuất, lưu thông hàng hóa, gây tổn hại đến kinh tế và xã hơn là xâm phạm các quyền con người.
3. Nguyên nhân của xung đột xã hội ở nước ta:
3.1. Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất là nguyên nhân từ sự phát triển kinh tế – xã hội. Nền kinh tế thị trường đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần xã hội. Nhưng bên cạnh đó, kinh tế thị trường cũng có những mặt trái (như lối sống thực dụng, trọng vật chất, đạo đức truyền thống, văn hóa truyền thống bị suy thoái, v.v.). Đây chính là một trong những yếu tố tạo nên những xung đột xã hội. Những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế (xuất hiện nhiều hơn với mức độ, quy mô khác nhau, tính chất khác nhau) đã dẫn đến những xung đột xã hội không thể tránh khỏi. Đây là nguyên nhân phổ biến của các xung đột xã hội ở Việt Nam thời gian gần đây.
Thứ hai là nguyên nhân từ sự biến đổi về mặt xã hội. Ở Việt Nam đã xuất hiện và gia tăng tình trạng phân hóa, phân tầng xã hội, chênh lệch giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội. Sự phát triển kinh tế xã hội, sự gia tăng quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa đã phá vỡ những cấu trúc xã hội truyền thống (như cấu trúc làng, xã, cấu trúc gia đình ...) cũng là nguyên nhân gây nên xung đột xã hội. Tâm lý xã hội khủng hoảng, bức xúc xã hội, các vấn đề an ninh phi truyền thống cũng là nguyên nhân dẫn đến xung đột xã hội. Bên cạnh đó, lối sống thực dụng, chủ nghĩa khủng bố (từ nước ngoài ảnh hưởng vào Việt Nam trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế) cũng tác động không nhỏ đến lối sống của con người Việt Nam, nhất là thanh niên. Ngoài ra, những hiện tượng tự nhiên tiêu cực (như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên) cũng đang chứa đựng những mầm mống gây xung đột xã hội. Gần đây, những xung đột xã hội có nguyên nhân từ môi trường đang ngày càng gia tăng, mức độ ngày càng nghiêm trọng.
Thứ ba là nguyên nhân từ hệ thống chính trị. Sự yếu kém của các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở tại một số địa phương; sự thoái hóa biến chất của một số cán bộ, cả cán bộ lãnh đạo, quản lý; tình trạng chính quyền quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, làm sai, cố ý làm sai chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; cách giải quyết những đòi hỏi, bức xúc, nguyện vọng của nhân dân không hợp tình, không hợp lý, không dứt điểm; sự sai sót trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong nội bộ nhân dân; sự lợi dụng, kích động của phần tử xấu; sự bất cập trong việc thực thi pháp luật; đó là một trong những nhóm nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xung đột xã hội ở Việt Nam thời gian qua. Một số chính sách, pháp luật trong lĩnh vực đất đai, lao động, an sinh xã hội, quản lý xã hội và bảo đảm quyền lợi cho người dân chưa được đồng bộ, nhất quán, còn bất cập, chồng chéo. Điều này cũng là một nguyên nhân gây ra xung đột xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nguyên nhân chủ quan:
+ Việc thông tin, nắm tình hình của chính quyền và những cán bộ có trách nhiệm trước và trong quá trình diễn biến xung đột xã hội thiếu đầy đủ, không chính xác do đó không xác định được bản chất của từng sự việc cụ thể, không phân hóa được các đối tượng và đề ra kế hoạch, biện pháp xử lý kịp thời.
+ Trong tổ chức Đảng, chính quyền không ít các bộ quan liêu, chủ quan, không thấy sai sót, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, quản lý của mình, mà cho rằng: xung đột xã hội là do những kẻ bất mãn, bị xúi giục hay các đối thủ chính trị cạnh tranh nên chỉ tập trung nghiêm trị những trường hợp đó. Do đó, vội vã huy động lực lượng tiến hành các biện pháp trấn áp, làm cho tình hình căng thẳng, phức tạp hơn.
+ Ở những cuộc xung đột phức tạp, kéo dài các tổ chức Đảng, chính quyền cấp trên và ngành Trung ương đều được giao trách nhiệm phối hợp giải quyết, nhưng do chỉ đạo phân công chưa rõ ràng; Sự phối hợp giữa các lực lượng chưa chặt chẽ nên có hiện tượng trông chờ, ỷ lại. Một số việc cụ thể tiến hành chậm hoặc không kịp thời vì phải thông qua nhiều cấp, nhiều ngành nên khi xử xử lý vấn đề phát sinh trước xung đột thường đưa ra ý kiến không thống nhất.
+ Việc tổ chức vận động các đoàn thể quần chúng như hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội cựu chiến binh, các già làng, trưởng bản, cán bộ hưu chí và quần chúng tốt tham giải quyết xung đột xã hội là rất quan trọng, nhưng thực tế tại nhiều nơi, chính quyền và bản thân các tổ chức này ở cơ sở và cấp trên cũng chưa chủ động tổ chức vận động các thành viên tham gia tích cực. Chưa kiên trì giáo dục, vận động nhân dân hoặc chỉ giáo dục, vận động một cách hình thức, nên quần chúng chưa hiểu rõ đúng, sai, chưa ủng hộ các biện pháp xử lý của chính quyền và chưa dám đấu tranh với bọn cầm đầu, quá khích.
+ Chủ trương, biện pháp xử lý những trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm chính sách, pháp luật chưa rõ ràng, thống nhất. Chẳng hạn: những vi phạm luật đất đai trong thời gian qua xảy ra rất nhiều và rất phức tạp, nhưng các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng không chỉ đạo hướng dẫn cụ thể, nên việc xử lý thiếu thống nhất, thậm chí nhiều nơi không xử lý.
+ Đối với số cán bộ cơ sở vi phạm, có tình trạng: cấp trên bao che cho cấp dưới, không xử lý hoặc xử lý nhẹ; khi quần chúng đấu tranh, gây áp lực thì lại xử lý tràn lan và mạnh tay. Đối với bọn cầm đầu, cố tình gây rối trật tự công cộng thì lại rụt rè bắt giữ, chưa mạnh tay xử lý dẫn đến tình trạng nóng vội, lạm dụng các biện pháp bắt giữ đơn thuần nên dẫn đến tình trạng lúc cần bắt thì không bắt, lúc không cần bắt lại bắt.
+ Chưa chú trọng công tác củng cố Đảng và xây dựng chính quyền, đội ngũ cán bộ sau khi xung đột xã hội tạm kết thúc. Xử lý vi phạm sau khi có kết luận thanh tra, điều tra còn chậm hoặc thiếu khách quan, có cán bộ vi phạm ở cơ sở, địa phương lại được điều động lên Trung ương hoặc cấp trên với cương vị cao hơn làm cho quần chúng phẫn nộ, có khi là nguyên nhân làm cho xung đột xã hội tái phát trở lại.