Thực tiễn thực hiện vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự. Kết quả đạt được và hạn chế còn tồn tại trong việc bảo vệ quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự của luật sư.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về tình hình tổ chức và hoạt động hành nghề của đội ngũ luật sư ở Việt Nam hiện nay:
- 2 2. Kết quả đạt được trong việc bảo vệ quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự của luật sư:
- 3 3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân trong việc bảo vệ quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự của luật sư:
1. Khái quát chung về tình hình tổ chức và hoạt động hành nghề của đội ngũ luật sư ở Việt Nam hiện nay:
Sự kiện Luật Luật sư được ban hành và đi vào đời sống đã góp phần nâng cao vị thế của đội ngũ luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư ở nước ta cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển, thay đổi của đội ngũ luật sư một phần do những quy định đổi mới của Luật Luật sư về các tiêu chí như tiêu chuẩn luật sư, điều kiện hành nghề luật sư, quy trình trở thành luật sư, các quy định về tập sự, gia nhập Đoàn luật sư, quy tắc đạo đức, hành nghề luật sư.
* Về tổ chức luật sư:
Luật Luật sư hiện nay đã quy định chi tiết về tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, hệ thống tổ chức luật sư từ trung ương đến các địa phương, đó là Liên đoàn luật sư Việt Nam và Đoàn luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư được thành lập để đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ luật sư, giám sát việc tuân theo pháp luật, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, thực hiện quản lý hành nghề luật sư theo quy định của Luật Luật sư.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam là tổ chức xã hội – nghề nghiệp thống nhất trên toàn quốc của các Đoàn Luật sư và các Luật sư Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Liên đoàn Luật sư Việt Nam có chức năng đại diện, tập hợp, đoàn kết, hỗ trợ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các Luật sư, Đoàn Luật sư thành viên. Với việc quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Luật Luật sư đã tăng cường đáng kể vai trò tự quản của tổ chức luật sư. Liên đoàn luật sư Việt Nam đã ban hành quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư; phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành quy chế tập sự hành nghề luật sư, đào tạo nghề luật sư, kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Bên cạnh đó, Liên đoàn luật sư Việt Nam đang hướng tới việc tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề, tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật sư trong cả nước.
Đoàn luật sư là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tổ chức và hoạt động theo Luật Luật sư và Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam. Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có từ ba người có Chứng chỉ hành nghề luật sư trở lên thì được thành lập Đoàn luật sư [31]. Thời gian qua, công tác của các Đoàn luật sư đối với nghề luật sư đã có nhiều chuyển biến tích cực. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, Đoàn luật sư đã thực hiện tương đối tốt công tác giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử hành nghề luật sư, Điều lệ Đoàn luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; kịp thời nhắc nhở, uốn nắn và có biện pháp xử lý kịp thời các trường hợp luật sư vi phạm. Các Đoàn luật sư ở các tỉnh, thành phố tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; trợ giúp pháp lý, tư vấn miễn phí, bào chữa.
Tính đến thời điểm hiện nay, tại 63 tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước đều đã có đoàn luật sư hoạt động. Công tác phát triển số lượng luật sư của Liên đoàn Luật sư Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển nghề luật sư. Tính đến cuối năm 2020, số lượng Luật sư thành viên là 15.107, so với năm 2019 có 13.859 luật sư, số lượng luật sư đã tăng 1.248 luật sư. Công tác nhân sự của Liên đoàn, Đoàn luật sư luôn được thực hiện thận trọng, khách quan để lựa chọn và giới thiệu người có đức, có tài đóng góp cho sự phát triển bền vững của tổ chức luật sư.
* Về hoạt động hành nghề của luật sư:
– Thứ nhất, về phạm vi hành nghề:
Sau khi Pháp lệnh luật sư năm 2001 và đặc biệt sau khi Luật Luật sư được ban hành hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam đã có những bước chuyển biến rõ rệt. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư thì dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác. Tuy nhiên, Luật Luật sư đã mở rộng hơn phạm vi hành nghề luật sư với lĩnh vực đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng. Có thể nói trên cơ sở những quy định của pháp luật ngày càng mở rộng hoạt động hành nghề của luật sư cùng với sự nỗ lực của các luật sư, các dịch vụ pháp lý và phạm vi lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư tăng lên đáng kể về số lượng và từng bước nâng cao về chất lượng dịch vụ.
Tham gia tố tụng là hoạt động, lĩnh vực hành nghề chủ yếu của các luật sư hiện nay. Trong thời gian vừa qua, các luật sư đã tham gia giải quyết hàng trăm nghìn vụ án ở các lĩnh vực khác nhau. Vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã có nhiều bước phát triển vượt bậc, pháp luật tố tụng từng bước được hoàn thiện, các cơ quan tiến hành tố tụng có sự quan tâm nhiều hơn đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng. Việc luật sư tham gia tố tụng không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, góp phần làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tư vấn pháp luật là lĩnh vực hoạt động quan trọng của luật sư, đặc biệt trong điều kiện nhu cầu tư vấn pháp luật trong xã hội ngày càng tăng nhanh như hiện nay. Tư vấn pháp luật là việc luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các văn bản, giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng. Các luật sư hiện nay đã mở rộng và phát triển tư vấn pháp luật trong hầu hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Hoạt động đại diện ngoài tố tụng của luật sư là việc luật sư đại diện cho khách hàng để giải quyết các công việc có liên quan đến việc mà luật sư đã nhận theo phạm vi, nội dung được thể hiện trong hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo sự phân công của cơ quan, tổ chức nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo
Bên cạnh đó, các luật sư cũng đã và đang tham gia tích cực vào hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng thuộc diện chính sách. Việc tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư không chỉ thực hiện mang tính chất nghĩa vụ của luật sư đối với xã hội mà còn góp phần tạo lập sự công bằng cho các đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý trong xã hội. Trong thời gian qua, đội ngũ luật sư đã tham gia trợ giúp pháp lý cho hàng nghìn vụ việc, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người nghèo, người thuộc diện chính sách, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác trong tố tụng hình sự.
– Thứ hai, về hình thức hành nghề của luật sư:
Theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, luật sư chỉ được hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư (thành lập hoặc tham gia thành lập Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh hoặc làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư, bao gồm cả tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam). Luật Luật sư ban hành đã mở rộng hình thức hành nghề của luật sư, theo đó luật sư có thể lựa chọn hình thức hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân.
– Thứ ba, về hình thức tổ chức hành nghề luật sư:
Theo quy định tại Điều 32
Nhìn chung, hình thức tổ chức hành nghề luật sư đang ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho các luật sư lựa chọn mô hình hoạt động phù hợp nhằm phát huy hết khả năng sử dụng các điều kiện để hành nghề một cách thuận lợi, hiệu quả nhất.
Hoạt động hành nghề của luật sư phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng nhu cầu của xã hội ngày càng phát triển theo xu hướng mở rộng dân chủ. Tuy nhiên, việc hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay vẫn gặp muôn vàn khó khăn, luật sư phải chịu áp lực từ nhiều phía, nhất là từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (trong lĩnh vực hành chính và tư pháp). Những năm trở lại đây, càng ngày càng nhiều người đủ tiêu chuẩn hành nghề luật sư nhưng chỉ có một số ít hành nghề luật sư, một bộ phận khác hành nghề trong các lĩnh vực khác nhau. Có sự chuyển dịch rõ rệt trong cơ cấu luật sư, xu hướng giảm dần tranh tụng để sang tư vấn pháp luật, thậm chí có nhiều luật sư về làm nhân sự trong các doanh nghiệp để nhận lương hàng tháng để có sự ổn định, tránh những áp lực trong quá trình hành nghề luật sư.
Do đó, vấn đề đặt ra hiện nay cần tìm giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư, đảm bảo cho số lượng luật sư hành nghề chuyên nghiệp ngày một tăng, phát triển đều cả lĩnh vực tranh tụng cũng như tư vấn. Đây là một trong những nội dung quan trọng đang được nhà nước quan tâm và cũng là nhiệm vụ hàng đầu cho Liên đoàn luật sư ngay sau khi được thành lập.
2. Kết quả đạt được trong việc bảo vệ quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự của luật sư:
Theo Báo cáo tại Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ hai năm 2015: Từ tháng 5/2009 đến ngày 31/3/2015 số lượng vụ việc luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, cung cấp dịch vụ pháp lý khác cho các tổ chức, cá nhân lên đến 77.129 vụ án hình sự (trong đó có 34.635 vụ án hình sự được mời, 42.494 vụ án hình sự theo chỉ định của cơ quan tiến hành tố tụng); 65.263 vụ án dân sự; 5.486 vụ án kinh tế; 5.575 vụ án hành chính; 724 vụ án lao động; 272.365 vụ tư vấn trong các vụ việc khác; 9.133 đại diện ngoài tố tụng; 89.491 dịch vụ pháp lý khác; 37.827 vụ việc trợ giúp pháp lý miễn phí… Trong những năm gần đây đội ngũ luật sư đã đảm nhận 100% việc bào chữa trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu với chất lượng ngày càng được nâng cao.
Trong TTHS, hoạt động bào chữa của luật sư nói chung và trong các phiên tòa xét xử nói riêng đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Với sự kiện các đoàn luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thành lập, số lượng luật sư ngày càng gia tăng và luật sư cũng tham gia nhiều hơn trong các phiên tòa xét xử của Tòa án các cấp khác nhau. Tất cả các vụ án mà pháp luật quy định bắt buộc phải có luật sư tham gia với tư cách người bào chữa đều được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục, theo đúng quy định của pháp luật. Đó là các vụ án đặc biệt nghiêm trọng với khung hình phạt cao nhất theo quy định là chung thân hoặc tử hình; các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên; bị can, bị cáo là người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Khi tham gia vào các vụ án nói trên để thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho các bị can, bị cáo, luật sư đã góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ, đảm bảo quá trình tố tụng được diễn ra khách quan, chính xác, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trong TTHS, mối quan hệ giữa luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như ĐTV, KSV, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân nói chung được thiết lập một cách chặt chẽ. Đa số các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều thực hiện đúng các quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia với tư cách người bào chữa, thực hiện đúng trách nhiệm, quyền hạn của mình. Các luật sư khi tham gia tố tụng trong vụ án hình sự với tư cách người bào chữa đều tuân thủ các quy định của pháp luật, thực hiện các quyền của người bào chữa theo quy định của Bộ luật TTHS, đảm bảo quá trình giải quyết vụ án được tiến hành đúng thời hạn, bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của người được bào chữa.
Khi tham gia tố tụng trong vụ án hình sự với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, luật sư có vai trò quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện dân chủ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự. Cùng với hoạt động bào chữa, hoạt động của luật sư đã góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Nhìn chung, sự tham gia của luật sư trong vụ án hình sự góp phần khắc phục được những hạn chế đang bộc lộ để bảo đảm việc thực hiện quyền được SĐVT trong thực tiễn, đó là các vấn đề: (i) Khắc phục tư tưởng coi người bị buộc tội là người có tội của người tiến hành tố tụng; (ii) Khắc phục tình trạng tuân thủ không nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; (iii) Khắc phục tình trạng kết tội khi không đủ chứng cứ thuyết phục.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, thực tế vẫn còn những vi phạm và thiếu sót của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã xâm phạm tới quyền được SĐVT của người bị buộc tội hoặc xâm phạm tới hoạt động tư pháp. Sự tham gia tố tụng của luật sư có trường hợp còn gặp khó khăn do phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện đúng quy định của pháp luật, chưa thực sự tạo điều kiện để luật sư thực hiện các quyền khi tham gia tố tụng của mình.
3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân trong việc bảo vệ quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự của luật sư:
Bộ luật TTHS năm 2015 đã thay thế thủ tục xin cấp giấy chứng nhận bào chữa bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”. Văn bản này có giá trị trong suốt quá trình tố tụng, quá trình tham gia với tư cách người bào chữa của luật sư. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, văn bản này sẽ hết hiệu lực trước khi kết thúc vụ án, đó là các trường hợp người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa, người đại diện của người bị buộc tội quy định tại Khoản 1 Điều 76 Bộ luật TTHS từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa.
Trên thực tế, có những khó khăn, bất cập ảnh hưởng đến hoạt động của luật sư trong việc thực hiện bào chữa nói chung và việc bảo đảm quyền được suy đoán vô tội nói riêng trong tố tụng hình sự. Đặc biệt trong giai đoạn điều tra, cụ thể:
– Sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký bào chữa thì việc luật sư tiếp cận bị can vẫn còn gặp những khó khăn. Theo quy định của Bộ luật TTHS, trong giai đoạn điều tra, người bào chữa có quyền gặp, hỏi người bị buộc tội, tuy nhiên nhiều trường hợp luật sư muốn tiếp cận bị can thì thường không được thực hiện bởi các lý do “điều tra viên đang bận đi công tác” hoặc “án phức tạp nên chưa được gặp bị can”, ..
– Quá trình lấy lời khai, hỏi cung bị can ở những giai đoạn quan trọng thường ít có sự tham gia, chứng kiến của luật sư. Theo quy định của Bộ luật TTHS người bào chữa có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can, nhưng trên thực tế, có nhiều trường hợp luật sư bị hẹn sai giờ, không được thông báo hoặc thậm chí có trường hợp bắt đầu hỏi cung bị can thì điều tra viên mới thông báo cho luật sư biết.
– Việc tiếp cận tài liệu, chứng cứ vụ án của luật sư còn có phần hạn chế. Bộ luật TTHS cho phép luật sư được đọc, ghi chép và sao chụp hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa. Tuy nhiên, việc đọc, ghi chép và sao chụp hồ sơ chỉ được thực hiện từ khi kết thúc điều tra và trong nhiều vụ án luật sư khó có thể tiếp cận hồ sơ do cơ quan điều tra trả lời hồ sơ chưa được hoàn thiện, vụ án có tính chất phức tạp, viện kiểm sát chưa phúc cung,
– “Quyền im lặng” là một nội dung của quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự xuất phát từ nguyên tắc “Người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội”. Tuy nhiên, trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay quyền này đang không được tôn trọng, nếu giữ quyền im lặng thì người bị buộc tội bị ghép vào thái độ không thành khẩn, không khai báo, bị xem như là tình tiết tăng nặng, không được giảm nhẹ tội, không được hưởng “sự khoan hồng” của pháp luật.
Giai đoạn điều tra là giai đoạn quan trọng trong TTHS nhằm thu thập, củng cố, đánh giá chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Trong các hoạt động điều tra, hỏi cung bị can được xác định là nội dung quan trọng nhất, bởi lẽ: Hành vi mớm cung, ép cung, dùng nhục hình vẫn còn được sử dụng ở đâu đó và được xem như là biện pháp để chứng minh tội phạm. Việc bức cung, ép cung, dùng nhục hình trước hết xâm phạm đến quyền được bảo vệ sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị buộc tội, đồng thời làm cho kết quả điều tra không khách quan, không đúng pháp luật. Điều này dẫn đến việc thực hiện các quyền của người bị buộc tội, trong đó có quyền được SĐVT không triệt để. Những hoạt động điều tra khác như: Khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, khai quật tử thi… hầu hết luật sư cũng không được tham gia, mặc dù việc tham gia của luật sư là rất có lợi cho việc bào chữa.
Trong giai đoạn điều tra, việc gặp bị can đang bị tạm giam cũng rất khó khăn, bởi lẽ nếu luật sư có được gặp bị can thì họ phải chịu sự giám sát trực tiếp của điều tra viên và giám thị trại giam. Điều này kiến cho bị can không dám phản ánh những điều cần thiết cho người bào chữa.
Bộ luật TTHS quy định: Khi xét xử, HĐXX phải căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Thực tiễn hoạt động xét xử cho thấy, nguyên tắc này rất ít khi được áp dụng mà hầu hết các vụ án trước khi được đưa ra xét xử đã được Ủy ban thẩm phán “định hướng” cho thẩm phán chủ tọa phiên tòa về tội danh và hình phạt sẽ được áp dụng đối với từng bị cáo. Điều này dẫn đến việc vi phạm nguyên tắc khách quan, vô tư trong xét xử, dẫn tới việc vi phạm quyền của các bị cáo trong đó có quyền được SĐVT.
Việc tòa án xét xử dựa trên hồ sơ với kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã gây ra sự phiến diện tại phiên tòa. Một số hồ sơ vụ án có những sai phạm như các chứng cứ ngoại phạm của các bị can không được cơ quan điều tra làm rõ; chứng cứ gỡ tội cũng chưa được HĐXX xem xét; vị trí, vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa rất mờ nhạt và chưa được coi trọng đúng mức.
Từ những thực tiễn nêu trên chúng ta thấy được những khó khăn, bất cập trong hoạt động của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng trong vụ án hình sự. Bị cáo trong phiên tòa vẫn bị coi là người có tội cho nên quyền được SĐVT chưa được áp dụng và thực hiện có hiệu quả.
Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện quyền được SĐVT của luật sư trong TTHS chủ yếu từ những vấn đề sau:
– Thứ nhất, chính sách xây dựng pháp luật:
Khi nghiên cứu xây dựng một văn bản pháp luật nào đó thì trước hết cần phải có chính sách về nó đã. Còn nếu không có chính sách trong việc xây dựng pháp luật thì việc xây dựng ra pháp luật sẽ không tốt, không mang tính khả thi. Ví dụ điển hình như
– Thứ hai, nội dung pháp luật:
Pháp luật phải thực sự nghiêm minh, mang tính dự báo, luôn đi trước thời đại và hội nhập với pháp luật quốc tế. Chức năng của pháp luật là bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của con người, Đó là sự mong mỏi chờ đợi của nhân nhân, của các cơ quan và người thực thi pháp luật. Để đạt được những chức năng như vậy đòi hỏi các nhà làm luật phải có đủ đức, đủ tài và có tinh thần trách nhiệm cao trong việc xây dựng pháp luật sao cho không có những “kẽ hở”. Pháp luật phải lấy giáo dục, cải tạo làm trọng tâm, đồng thời cũng phải trừng phạt nghiêm khắc những kẻ cầm đầu, chủ mưu.
– Thứ ba, ý thức thực hiện pháp luật:
Hiện nay vẫn còn một bộ phận cá nhân, pháp nhân coi thường pháp luật, lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để trục lợi, phạm tội. Việc thực hiện pháp luật vẫn chưa phải là ý thức tự giác của tất cả mọi người. Không ít các trường hợp những cá nhân đang sống và làm việc tại cơ quan thực thi pháp luật nhưng vẫn vi phạm pháp luật, một trong số ít ấy có cả luật sư. Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội, song không phải tất cả ai cũng sống, làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật. Cần phải nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, thực hiện pháp luật một cách tự giác.
– Thứ tư, vấn đề kiểm tra và giám sát pháp luật:
Kiểm tra và giám sát pháp luật là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Nếu việc kiểm tra và giám sát pháp luật không sát sao thì luật pháp sẽ không được thực hiện một cách nghiêm minh, không mang tính kịp thời để sửa chữa, điều chỉnh, từ đó làm mất lòng tin của một bộ phận nhân dân đối với pháp luật. Trong bộ máy nhà nước có các cơ quan như Bộ nội vụ, Thanh tra, Viện kiểm sát nhân dân, .. là những cơ quan có chức năng trong việc kiểm tra, kiểm sát và giám sát pháp luật. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trên đã kịp thời phát hiện được nhiều văn bản, hành vi của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức, đoàn thể có những vấn đề trái với quy định của pháp luật để kịp thời khắc phục, sửa chữa. Việc kiểm tra, giám sát chưa thực sự đi vào trọng tâm, trọng điểm, chưa thuyết phục đối với những đơn vị, những pháp nhân, cá nhân bị kiểm tra; chưa rút ra được những bài học kinh nghiệm sâu sắc, chưa xử lý được nhiều trường hợp vi phạm nghiêm trọng. Một bộ phận cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra, giám sát chưa nêu cao được tinh thần trách nhiệm trong công tác, trình độ, năng lực công tác còn nhiều hạn chế. So với những yêu cầu của Hiến pháp năm 2013, những quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 thì việc bảo đảm thực hiện các quyền của người bị tạm giữ, người bị bắt, bị can, bị cáo trong đó có quyền được SĐVT còn nhiều hạn chế, bất cập.
Các trường hợp xâm phạm quyền được SĐVT thường thuộc các loại án giết người, cướp tài sản, hiếp dâm trẻ em không quả tang mà trong quá trình điều tra gặp nhiều khó khăn và các vụ án về kinh tế do đánh giá chủ quan của người tiến hành tố tụng nhận thức không đúng, chưa phân biệt được vi phạm pháp luật và hành vi phạm tội đã hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế thành các tội lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Một số trường hợp do người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật đơn thuần, chỉ chú ý đến hậu quả xảy ra, không xem xét lỗi và điều kiện khách quan dẫn đến hành vi vi phạm trong các trường hợp như gây thương tích nhẹ, vi phạm về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, …
Hiện nay, việc thực hiện quyền được SĐVT trong TTHS còn nhiều hạn chế, chưa thực sự áp dụng đúng tinh thần SĐVT. Các trường hợp quyền SĐVT không được bảo đảm thực hiện đã ảnh hưởng trực tiếp đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe và tài sản của người dân. Nhiều trường hợp đặc biệt nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận, gây mất lòng tin của nhân dân đối với công lý, thực thi pháp luật.
Việc thực hiện quyền được SĐVT trong tố tụng hình sự của luật sư còn nhiều hạn chế, xuất phát từ những nguyên nhân sau:
* Nguyên nhân chủ quan:
Một bộ phận người tiến hành tố tụng, bao gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán chưa nghiêm túc chấp hành pháp luật; yếu kém về năng lực, trình độ, chuyên môn, chưa thường xuyên, kịp thời cập nhật pháp luật; thiếu tính chuyên nghiệp, có biểu hiện của bệnh thành tích, nóng vội trong giải quyết vụ án, đánh giá chủ quan dựa vào lời nhận tội của bị can, bị cáo; việc thu thập chứng cứ chưa thật sự đầy đủ, khách quan, toàn diện; chưa thực hiện đúng quyền được SĐVT. Từ đó, có những thái độ đối xử với bị tạm giữ, người bị bắt, bị can, bị cáo như là người có tội, bảo thủ, định kiến trong việc giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng bất lợi cho người bị buộc tội.
– Hồ sơ vụ án còn có xu hướng thiên về buộc tội, tại phiên tòa KSV còn tập trung vào bảo vệ cáo trạng, dẫn tới quyền được SĐVT và quyền bào chữa của bị can, bị cáo khó được bảo đảm, tôn trọng. Quá trình tranh tụng tại phiên tòa còn mang tính hình thức; Thẩm phán, KSV còn coi trọng “án tại hồ sơ”, chưa coi trọng “án tại phiên tòa”, chưa chủ động tranh luận, tích cực làm sáng tỏ các tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa; HĐXX khi nghị án chưa quán triệt đầy đủ yêu cầu pháp luật.
– Một bộ phận người tiến hành tố tụng còn yếu kém về phẩm chất, đạo đức, buông lỏng trách nhiệm. Đã có nhiều trường hợp bị xử lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (làm sai lệch hồ sơ vụ án, ra bản án, quyết định trái pháp luật, nhận hối lộ, dùng nhục hình, ..) nhìn chung việc xử lý cán bộ mắc sai phạm chưa nghiêm, có hiện tượng bao che, nể nang; việc xử lý hình sự một số trường hợp còn quá nhẹ gây bức xúc trong dư luận.
– Việc phối hợp liên ngành trong một số trường hợp chưa thực sự đúng chức năng, nhiệm vụ; thiếu sự liên kết, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan tư pháp. Một số VKS chưa làm tốt nhiệm vụ công tố gắn với hoạt động điều tra, thực hiện không đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn của mình. Sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ, phối hợp giữa các cơ quan chưa kịp thời, nhiều trường hợp ý kiến khác nhau gây khó khăn, lúng túng trong việc áp dụng.
– Đội ngũ luật sư còn thiếu tính chuyên nghiệp; gần 80% vụ án hình sự hiện nay chưa có luật sư tham gia nên chưa đảm bảo việc thực hiện tối đa quyền được SĐVT, chưa đảm bảo tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Sự tham gia tố tụng của người bào chữa còn gặp nhiều khó khăn.
Chất lượng trưng cầu giám định còn nhiều hạn chế như trưng cầu muộn, hồ sơ trưng cầu không đủ dấu vết, vật mẫu hoặc yêu cầu giám định vượt quá chuyên môn của cơ quan được trưng cầu. Chất lượng giám định bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như không giám định được vết máu, lông, tóc tại hiện trường để truy nguyên cá biệt; nhiều trường hợp phải giám định nhiều lần, kết quả giám định rất khác nhau dẫn đến việc xử lý vụ án gặp khó khăn; kết luận giám định trong một số trường hợp có biểu hiện không khách quan.
* Nguyên nhân khách quan:
– Một số quy định của Bộ luật TTHS còn hạn chế, bất cập như: bảo đảm quyền được suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa; khái niệm chứng cứ, các nguyên tắc đánh giá, sử dụng và loại trừ chứng cứ; chủ thể thu thập chứng cứ. Nhiều thủ tục còn rườm rà, phức tạp, thời hạn tố tụng chưa hợp lý gây khó khăn, vướng mắc trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử.
– Quy định của pháp luật về giám định chưa hoàn thiện về quy chuẩn, thời hạn thực hiện giám định, trách nhiệm của cơ quan giám định như: tiêu chí đánh giá mức độ thương tật, tổn hại sức khỏe trong TTHS vẫn phải dựa trên quy định của Bộ Y tế – Thương binh và Xã hội về giám định y khoa; thời gian tiến hành giám định trong các lĩnh vực xây dựng, ngân hàng, tài chính, … thường kéo dài, chi phí giám định lớn. Đội ngũ giám định viên thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn chưa đồng đều.
– Điều kiện làm việc, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, trang thiết bị của các cơ quan tư pháp ở một số nơi còn thô sơ, lạc hậu, cơ sở giam, giữ còn chưa đáp ứng được yêu cầu.