Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về giải đáp một số vướng mắc trong xét xử có hướng dẫn về thụ lý vụ án dân sự. Vậy thụ lý vụ án dân sự theo hướng dẫn của TAND tối cao ở Công văn này được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
- 1 1. Hướng dẫn của TAND tối cao về thụ lý vụ án theo Công văn 02/TANDTC-PC 2021:
- 2 2. Các hướng dẫn khác của Tòa án nhân dân tối cao theo Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
- 2.1 2.1. Mục 1 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
- 2.2 2.2. Mục 3 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
- 2.3 2.3. Mục 4 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
- 2.4 2.4. Mục 5 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
- 2.5 2.5. Mục 6 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
- 2.6 2.6. Mục 7 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
- 2.7 2.7. Mục 8 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
- 2.8 2.8. Mục 9 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
- 2.9 2.9. Mục 10 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
- 2.10 2.10. Mục 11 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
1. Hướng dẫn của TAND tối cao về thụ lý vụ án theo Công văn 02/TANDTC-PC 2021:
Căn cứ Mục 2 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự với nội dung như sau:
Theo Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21-9-2011 của Tòa án nhân dân tối cao về thẩm quyền giải quyết những yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là loại giấy tờ có giá, nếu như có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại những giấy tờ này thì Tòa án sẽ không thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng”. Như vậy, Tòa án có được thụ lý giải quyết các trường hợp này không?
Khoản 8 Điều 6 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định như sau:
“Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.
Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005 quy định giấy tờ có giá là:
– Hối phiếu đòi nợ;
– Hối phiếu nhận nợ;
– Séc.
Khoản 16 Điều 3 của Luật Đất đai năm 2013 quy định rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để cho Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người mà có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. Trong mục 1 Phần I Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao đã giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự hướng dẫn rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một quyết định hành chính; nếu như thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Theo đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính, chứ không phải là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ” vì thế cho nên không phải là giấy tờ có giá. Do vậy, hướng dẫn tại Công văn số 141/TANDTC-KHXX xác định rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá vẫn phù hợp với nội dung tại Bộ luật Dân sự năm 2015 và các pháp luật khác đang có hiệu lực.
Điều 164 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rằng Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc những người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt các hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Như vậy, nếu như có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chấm dứt các hành vi cản trở thực hiện quyền của người sử dụng đất thì Tòa án nhân dân sẽ phải thụ lý giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Các hướng dẫn khác của Tòa án nhân dân tối cao theo Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
2.1. Mục 1 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
Ông A phải thi hành án trả cho ông C số tiền là 500 triệu đồng, ông A không có tự nguyện thi hành án. Cơ quan thi hành án xác định được vợ chồng ông A có tài sản là quyền sử dụng 156m2 đất cùng tài sản gắn liền trên đất, nhưng lại chưa làm những thủ tục thông báo theo quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự, chưa cưỡng chế thi hành án đối với ông A. Ông C tiến hành khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, xác định phần quyền sử dụng đất của ông A trong khối tài sản chung. Sau khi đã thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện H đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án với lý do là ông C chưa đủ kiều kiện khởi kiện. Như vậy, quyết định đình chỉ này của Tòa án nhân dân huyện H có đúng không?
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 7 của Luật Thi hành án dân sự thì những người được thi hành án dân sự có quyền khởi kiện dân sự nhằm để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án.
Khoản 1 Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự quy định trong trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, chưa xác định phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án có trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên sẽ phải thông báo cho người phải thi hành án và những người mà có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận với nhau về phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày mà nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc là thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc là thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên sẽ thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định về phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án có trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự…
Theo quy định tại khoản 12 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự là một trong các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Tuy nhiên, trong trường hợp này cơ quan thi hành án dân sự mới chỉ có xác định vợ chồng ông A có tài sản là quyền sử dụng đất tại thửa đất có diện tích 156m2 cùng tài sản gắn liền trên đất mà chưa làm những thủ tục thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự, ông C (là người được thi hành án) đã thực hiện khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, xác định phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án có trong khối tài sản chung là chưa đủ điều kiện khởi kiện. Do đó, Tòa án nhân huyện H đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là có căn cứ.
2.2. Mục 3 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
Trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, thế chấp tài sản… Tòa án có phải đưa các tổ chức hành nghề công chứng hợp đồng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không?
Theo quy định tại điểm d và điểm g khoản 2 Điều 17 của Luật Công chứng sửa đổi năm 2018 thì Công chứng viên phải có nghĩa vụ giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ về các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và các hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp mà từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ những lý do cho người yêu cầu công chứng và chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước những người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình.
Điều 38 của Luật Công chứng sửa đổi năm 2018 quy định:
– Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho những người yêu cầu công chứng và các cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc là người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng.
– Công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại sẽ phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho những người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp mà không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Khoản 4 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự mà có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ sẽ được tự mình đề nghị hoặc những đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có các quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó nhưng mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có các quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án sẽ phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, tùy vào từng trường hợp mà Tòa án xem xét có đưa tổ chức hành nghề công chứng vào tham gia tố tụng với tư cách là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp việc giải quyết tranh chấp hợp đồng mà có liên quan đến nghĩa vụ giải thích của Công chứng viên theo đúng quy định tại điểm d khoản 2 Điều 17 của Luật Công chứng sửa đổi năm 2018, liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng của tổ chức hành nghề công chứng thì Tòa án sẽ xem xét đưa tổ chức hành nghề công chứng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2.3. Mục 4 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) đã mua lại khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, sau đó, VAMC lại ủy quyền lại cho tổ chức tín dụng khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án để yêu cầu xử lý nợ xấu. Khi thực hiện thụ lý, giải quyết thì Tòa án có triệu tập và tống đạt những văn bản tố tụng cho cả VAMC và tổ chức tín dụng không?
Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cá nhân, pháp nhân có thể được ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Khoản 4 Điều 85 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định người đại diện theo ủy quyền theo các quy định của Bộ luật Dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.
Khoản 2 Điều 86 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 6 của Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số các quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân thì pháp nhân hoàn toàn có quyền ủy quyền cho pháp nhân hoặc cá nhân khác thực hiện khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Trường hợp này, VAMC đã mua lại khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, sau đó VAMC đã có văn bản ủy quyền cho tổ chức tín dụng với nội dung tổ chức tín dụng hoàn toàn được khởi kiện và tham gia tố tụng tại Tòa án để giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, về tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu thì tổ chức tín dụng được ủy quyền có những quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự. Do vậy, khi giải quyết vụ án thì Tòa án phải triệu tập và tống đạt văn bản tố tụng cho tổ chức tín dụng đã được ủy quyền, không phải triệu tập và tống đạt các văn bản tố tụng cho VAMC.
2.4. Mục 5 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nguyên đơn không nộp tiền chi phí định giá theo pháp luật quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Như vậy, trong trường hợp này thì nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án như trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện hay không?
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì:
Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
Khoản 1 Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu như việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, về bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này và những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, theo những quy định nêu trên thì trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì lý do là nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác thì nguyên đơn sẽ không có quyền khởi kiện lại để yêu cầu Tòa giải quyết tiếp vụ án như đối với trường hợp rút đơn khởi kiện.
2.5. Mục 6 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
Ông A chuyển nhượng đất cho ông B với giá là 02 tỉ đồng, ông B đã trả được cho ông A là 500 triệu đồng nhưng sau đó hai bên đã xảy ra tranh chấp, ông B yêu cầu tuyên bố hợp đồng giữa ông với ông A vô hiệu. Tòa án đã giải quyết tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông A và ông B là vô hiệu và các bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận. Vậy, trong trường hợp này ông A có phải chịu về án phí của số tiền 500 triệu đồng phải trả cho ông B không?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 27 của
Đối với tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì nghĩa vụ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định như sau:
– Trường hợp một bên yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và một bên có yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và đều không có các yêu cầu gì khác; nếu như Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì bên yêu cầu công nhận hợp đồng sẽ phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch; nếu như Tòa án tuyên bố công nhận hợp đồng thì bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu sẽ phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch;
– Trường hợp một bên yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và một bên có yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và có yêu cầu Tòa án thực hiện giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì ngoài việc phải chịu án phí không có giá ngạch được quy định trên, người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc là bồi thường thiệt hại phải chịu án phí như trường hợp vụ án dân sự có giá ngạch đối với phần giá trị tài sản phải thực hiện nghĩa vụ.
Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp ông B yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, ông A và ông B không có các yêu cầu gì khác; nếu như Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì ông A phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án không có giá ngạch.
Trường hợp ông B yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và có yêu cầu Tòa án giải quyết các hậu quả của hợp đồng vô hiệu, thì ông A sẽ phải chịu án phí không có giá ngạch và án phí theo giá ngạch của số tiền 500 triệu đồng phải trả cho ông B.
2.6. Mục 7 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
Cụ D, cụ E có hai người con là ông A, bà B. Ông A sinh sống cùng cụ D, cụ E trên diện tích đất do các cụ đã tạo lập nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi mà Nhà nước có chủ trương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1993 thì ông A đã kê khai đăng ký quyền sử dụng đất và đã được Ủy ban nhân dân huyện X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; khi đó thì cụ D, cụ E còn sống nhưng không có ý kiến phản đối. Sau khi cụ D, cụ E chết thì bà B khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của hai cụ. Vậy, vụ án sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện hay Tòa án nhân dân cấp tỉnh?
Khoản 5 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trong đó có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế tài sản.
Khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền thực hiện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
– Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ các tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;
– Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này;
– Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 của Bộ luật này.
Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:
– Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái với pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
– Quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về một vấn đề cụ thể và đã được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trong trường hợp vụ việc dân sự mà có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự đó.
– Khi xem xét hủy quyết định quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án phải đưa các cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền đã ban hành quyết định tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đã ban hành quyết định phải tham gia tố tụng và phải trình bày ý kiến của mình về quyết định cá biệt bị Tòa án xem xét hủy.
Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt được quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo các quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh sẽ có thẩm quyền giải quyết về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.
Như vậy, trường hợp đương sự khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế, không yêu cầu việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; căn cứ vào quy định tại khoản 5 Điều 26 và khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Trường hợp đương sự yêu cầu chia di sản thừa kế đồng thời là yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; căn cứ vào Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
2.7. Mục 8 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
Trong vụ án dân sự, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà có yêu cầu độc lập. Sau đó, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có đơn xin rút một phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập. Tòa án có ra quyết định về đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập đã rút không và xử lý tiền tạm ứng án phí như thế nào?
Khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định trường hợp có đương sự rút một phần hoặc là toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là thực hiện tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 18 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì trường hợp Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu trong vụ án dân sự vì lý do là bị đơn có yêu cầu phản tố rút yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có yêu cầu độc lập rút yêu cầu thì tiền tạm ứng án phí được trả lại cho người đã nộp.
Như vậy, trường hợp nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã rút một phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập thì Tòa án đình chỉ giải quyết phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập mà đã rút, tiền tạm ứng án phí không được trả lại cho đương sự. Việc đình chỉ và xử lý về tiền tạm ứng án phí sẽ được Hội đồng xét xử nhận định và quyết định trong bản án. Trong trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã rút toàn bộ yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập thì tiền tạm ứng án phí sẽ được Tòa án trả lại cho đương sự.
2.8. Mục 9 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
Người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc là nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ ghi ở trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì Tòa án có phải yêu cầu bổ sung về văn bản xác minh nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì mới thụ lý vụ án không? Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án không thể tống đạt được các văn bản tố tụng cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo như địa chỉ ghi trong giao dịch, hợp đồng do nguyên đơn cung cấp. Tòa án thực hiện tiến hành xác minh tại địa phương thì bị đơn đã đi khỏi nơi cư trú vào 06 tháng trước. Trong trường hợp này, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hay là tiếp tục giải quyết vụ án?
Điểm e khoản 1 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng về địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ lại không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi về nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho các cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho nhữg người khởi kiện không biết được nhằm mục đích để che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán sẽ không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Điểm a khoản 1 Điều 5 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP quy định địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quy định tại điểm e khoản 1 của Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được xác định như sau: Nếu như người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là công dân Việt Nam, là người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống thì nơi cư trú của họ sẽ là địa chỉ chỗ ở hợp pháp mà người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang thường trú hoặc tạm trú hoặc đang sinh sống theo quy định của Luật cư trú.
Khoản 2 Điều 5 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP quy định rằng người khởi kiện đã cung cấp về địa chỉ nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở của những người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng các quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này ngay tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà đã được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác để chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo các quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Khoản 1 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP quy định rằng trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện đã có ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết này thì Tòa án sẽ phải nhận đơn khởi kiện và xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
Căn cứ các quy định trên, người khởi kiện đã ghi đúng, đầy đủ về địa chỉ của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo như địa chỉ ghi trong giao dịch, hợp đồng thì Tòa án phải thụ lý vụ án mà không được yêu cầu những người khởi kiện phải cung cấp bổ sung văn bản xác minh nơi cư trú của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án mà không tống đạt được các văn bản tố tụng, xác minh tại địa phương thì họ đã đi khỏi nơi cư trú 6 tháng trước; đây sẽ được xác định là trường hợp người bị kiện, những người có quyền, nghĩa vụ liên quan giấu địa chỉ. Tòa án phải căn cứ quy định tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP để tiếp tục thực hiện giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
2.9. Mục 10 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
Trường hợp A kiện đòi B trả số tiền là 10.000.000 đồng và 20 chỉ vàng. Khi Tòa án thực hiện tiến hành hòa giải, A chỉ yêu cầu B trả 10.000.000 đồng, đối với 20 chỉ vàng A không yêu cầu B phải trả. Như vậy, Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và xử lý tiền tạm ứng án phí đối với 20 chỉ vàng như thế nào?
Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định việc đương sự rút một phần yêu cầu khởi kiện trước khi mà mở phiên tòa thì được xử lý như thế nào mà chỉ quy định về việc đương sự rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định rằng trường hợp có đương sự rút một phần hoặc là toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút.
Trường hợp này, việc A rút yêu cầu đối với 20 chỉ vàng phải được ghi nhận vào Biên bản của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tòa án sẽ căn cứ Điều 212 của Bộ luật Tố tụng dân sự ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Về án phí, theo quy định của pháp luật tại khoản 7 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì các bên đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mà mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch”.
Do vậy, các đương sự phải chịu 50% mức án phí đối với số tiền là 10.000.000 đồng, khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp đối với yêu cầu trả 20 chỉ vàng thì các đương sự không phải chịu án phí nên sẽ được hoàn trả lại.
2.10. Mục 11 phần 4 Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về tố tụng dân sự:
Trong vụ án hôn nhân và gia đình, trước khi mở phiên tòa xét xử, đương sự tự nguyện ly hôn nhưng lại không thỏa thuận được về con chung và tài sản chung. Do ácc đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử và ra bản án sơ thẩm. Trường hợp này thì Tòa án phải quyết định về án phí như thế nào?
Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định rằng trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án có chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trong trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm.
Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định rằng nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án có chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trong trường hợp thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu 50% mức án phí.
Căn cứ các quy định nêu trên, trong vụ án ly hôn, nguyên đơn sẽ phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm, trường hợp thuận tình ly hôn thì các bên đương sự sẽ phải chịu 50% mức án phí quy định (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định).
Trong trường hợp này, các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử và ra bản án sơ thẩm. Do các đương sự đã thỏa thuận về tự nguyện ly hôn nên các đương sự sẽ chỉ phải chịu 50% mức án phí quy định đối với yêu cầu xin ly hôn (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định); còn về quan hệ tài sản thì mức án phí mỗi bên phải chịu dựa trên giá trị của tài sản mà mỗi bên được chia theo quy định của pháp luật về án phí.
Văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Công văn 02/TANDTC-PC 2021 về giải đáp một số vướng mắc trong xét xử.