Giám đốc thẩm là gì? Thẩm quyền và thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm?
Theo như quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì trong quá trình thực hiện việc xét xử trong tố tụng vẫn còn nhiều sai sót hay vi phạm trình tự thủ tục tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Chính vì vậy mà việc này sẽ được xem xét lại tại các bản án đã có hiệu lực pháp luật để nhằm mục đích đảm bảo mọi việc xét xử được thực hiện trước đó bởi cơ quan tiến hành tố tụng phải thật khách quan, đúng pháp luật. Bên cạnh đó còn để bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ án dân sự đó.
Tuy nhiên, việc thực hiện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm này được pháp luật tố tụng dân sự quy định về thẩm quyền kháng nghị thuộc về người nào? Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được xác định trong thời gian bao lâu? Bởi lẽ đây là một thủ tục được xét xử kín nên chắc hẳn rất nhiều người còn đang băn khoăn về những nội dung này. Do đó, trong nội dung bài viết này, Luật Dương Gia sẽ giúp quý bạn đọc tìm hiểu về thẩm quyền và thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
–
1. Giám đốc thẩm là gì?
Theo như căn cứ quy định tại Điều 326 của
Thứ nhất, giám đốc thẩm được nhắc đến ở đây được khẳng định là thủ tục xét lại các bản án đã có hiệu lực pháp luật chứ không phải xét xử lại các bản án, quyết định đó. Theo nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử được pháp luật Việt Nam ghi nhận tại Điều 17 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ hai, Không chỉ có thế mà Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng có chỉ rõ về đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Về nguyên tắc những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì sẽ được đưa ra thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự.
Cũng như các giai đoạn tố tụng cấp sơ thẩm, phúc thẩm khác thì thủ tục Giám đốc thẩm cũng có quy định về nội dung kháng nghị Giám đốc thẩm. Do đó, Kháng nghị giám đốc thẩm được biết đến là hoạt động trong tố tụng. Chính vì thế, người có thẩm quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật phải dựa trên những căn cứ được pháp luật quy định về việc bản án, quyết định có dấu hiệu sai trái với pháp luật Tố tụng hiện hành và các văn bản pháp luật hiện hành khác. Theo quy định của khoản 1 Điều 326 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau:
Thứ nhất, kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ hai, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn quy định, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi hội đủ hai điều kiện sau:
Một là, có một trong những căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm được quy định tại khoản 1 Điều 326 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Hai là, phải có đơn đề nghị của đương sự về việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc có
Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn quy định, Chánh án
2. Thẩm quyền và thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
2.1. Chủ thể kháng nghị Giám đốc thẩm
Từ những quy định đã được nêu ở trên, thì đây là thủ tục Giám đốc thẩm được xác định là một thủ tục đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nên chỉ những chủ thể nhất định trong quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì mới có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Cụ thể người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Điều 331
“1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ”.
Từ quy định này có thẻ thấy rằng việc pháp luật hiện hành có quy định về người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là dựa trên căn cứ dựa vào công tác giám đốc thẩm của ngành Tòa án, khiếu nại của đương sự, tổng kết của ngành, công tác giám sát của Nhà nước, cơ quan tư pháp và từ các phương tiện thông tin đại chúng, cụ thể việc xác định người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được hiểu một cách đơn giản như sau:.
Thứ nhất, đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao thì thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm sẽ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện.
Thứ hai, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ, cụ thể tại Nghị quyết số 957/NQ-UBTVQH13 ngày 28/5/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thành lập Tòa án nhân dân cấp cao. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cần phân biệt giữa chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm và chủ thể có quyền đề nghị
2.2. Thời hạn kháng nghị
Bên cạnh việc bộ luật này quy định về vấn đề người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thảm thì trong phần hai này cũng nêu ra quy định về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định theo Điều 334
“Điều 334. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng nghị trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 02 năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:
a) Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;
b) Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 326 của Bộ luật này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó”.
Theo Điều 334, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc., thẩm được tiến hành trong thời hạn 03 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, để bảo đảm việc giải quyết đúng vụ án, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trong trường hợp đã hết thời hạn nhưng có đủ các điều kiện sau thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 02 năm kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị theo như quy định tại Khoản 2 Điều luật này.
Ngoài ra, trên có sở quy định tại Điều 335, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để tránh việc giải quyết yêu cầu kháng nghị một cách không cần thiết, pháp luật quy định việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị. Người đã kháng nghị giám đốc thẩm có quyền thay đổi, bổ sung quyết định kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng nghị mà pháp luật quy định. Người đã kháng nghị bàn án quyết định có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định kháng nghị trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm.