Hiện nay, pháp luật quy định Tòa án thực hiện hai cấp xét xử để đảm bảo cho vụ án được xét xử để đảm bảo cho vụ án được xét xử đúng người, đúng pháp luật. Trong đó, tái thẩm là một thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Mục lục bài viết
1. Tái thẩm là gì?
Tại
“Điều 397. Tính chất của tái thẩm
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó.”
Để phân tích thêm quy định trên thì ta sẽ tìm hiểu các khía cạnh của tái thẩm
Về đối tượng của tái thẩm: Đó chính là các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện ra những tình tiết mới. Từ đó, ta thấy đối tượng của thủ tục tái thẩm là các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật chứ không phải là vụ án như ở xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Tòa án có thẩm quyền tái thẩm không xem xét, đánh giá và kết luận lại những các vấn đề về nội dung của vụ án. Những bản án, quyết định đã có hiệu lực chính là những bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hoặc là những bản án đã qua đủ hai cấp xét xử sở thẩm, phúc thẩm. Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là đối tượng của tái thẩm khi những bản án, quyết định đó bị kháng nghị vì phát hiện ra những tính tiết mới có thể lam thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết khi ra bản án hoặc quyết định đó.
Mục đích của tái thẩm đó chính là xem xét tình tiết mới được phát hiện làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực bị kháng nghị. Tòa án xem xét tình tiết mới đó có ý nghĩa như thế nào đối với vụ án, có làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hay quyết định bị kháng nghị hay không. Đây chính là thủ tục xét lại tính có căn cứ của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Nếu bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án không có căn cứ thì sẽ bị hủy; khôi phục lại trình tự tố tụng để giải quyết lại vụ án hình sự nhằm khắc phục những sai lầm của Tòa án trong việc xác định sự thật của vụ án, đảm bảo tính có căn cứu của bản, quyết định của Tòa án.
Cơ sở phát sinh thủ tục tái thẩm đó là kháng nghị tái thẩm. Đó chính là kháng nghị của những người tiến hành tố tụng của người có thẩm quyền. Hiện nay tại Bộ luật Tố tụng hình sự quy định người có thẩm quyền kháng nghị chính là Viện trưởng Viện Kiểm sát.
Về Thẩm quyền tái thẩm thì đó là Tòa án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới.
Từ những khía cạnh trên, ta có thể hiểu thủ tục tái thẩm là hình thức pháp lý mà Tòa án có thẩm quyền áp dụng để xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà bị người có thẩm quyền kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó, nhằm đảm bảo sự thật của vụ án được xác định khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Tái thẩm tiếng Anh là: “Retrial’.
2. Ý nghĩ của thủ tục tái thẩm:
Thủ tục tái thẩm là cơ chế đảm bảo, nâng cao trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, đảm bảo thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, công bằng, bảo vệ triệt để các quyền cơ bản của công dân
Chế định tái thẩm góp phần bảo đảm hiệu quả hoạt động và tính độc lập của các cơ quan tư pháp, từ đó bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
Đảm bảo cho vụ án được giải quyết đúng đắn có căn cứ, đảm bảo cho pháp luật được áp dụng một cách đúng đắn và thống nhất trong hoạt động xét xử.
Nhằm sửa chữa những sai sót trong quá trình điều tra, xét xử tội phạm.
Qua thủ tục tái phẩm thì hiệu lực bắt buộc của các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của vụ án mới có thể được hủy bỏ. Qua đó khôi phục trình tự tố tụng đối với vụ án, để có thể xác định sự thật của vụ án.
Các quyết định của Tòa án có thẩm quyền tái thẩm hoặc là cơ sở pháp lý để khẳng định tính có căn cứu của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật ; hoặc là cơ sở hủy bỏ hiệu lực pháp luật của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, từ đó chấm dứt tố tụng đối với vụ án, hoặc khôi phục lại trình tự tổ tụng đối với vụ án (quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại, xét xử lại).
3. Trình tự kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong tố tụng hình sự:
Về người có thẩm quyền kháng nghị, thì
– Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán
– Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực.
– Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
(Điều 400
Tại Điều 398 của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về những căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong các căn cứ:
– Có căn cứ chứng minh lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng không đúng sự thật. Trên thực tế, có rất nhiều vụ án có sự tham gia của người làm chứng, người giám định, người phiên dịch,… Tuy nhiên, không phải trong trường hợp nào họ cũng thực hiện đúng nghĩa vụ, nhiệm vụ của mình, mà vì một lý do nào đó, họ đã cung cấp lời chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch, bản dịch không đúng sự thật mà từ những lời, kết luận, lời dịch đó dẫn đến hội đồng xét xử không đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đây chính là căn cứ để thực hiện kháng nghị tái thẩm.
– Có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án. Trong trường hợp này, các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán vì lý do không biết được các tình tiết đó, dẫn đến việc kết luận sai cho bản án, quyết định của Tòa án. Trường hợp các điều tra viên, kiểm tra viên, thẩm phán, hội thẩm biết về những tình tiết đó mà vẫn cố tình làm sai dẫn đến bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng với sự thật khách quan của vụ án thì không là căn cứ để tái thẩm vụ án hình sự.
– Vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật. Đây là căn cứ do người tham gia tố tụng và những người khác gây ra. Những vật chứng, biên bản, chứng cứ, tài liệu,… giả mạo khiến cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án thực hiện điều tra, truy tố và xét xử dựa trên các căn cứ mà nó không đúng với sự thật khách quan, kéo theo việc ra quyết định, bản án sai.
– Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.
Khi cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện tình tiết mới của vụ án và thông báo kèm theo các tài liệu liên quan chi viện kiểm sát hoặc tòa án. Trường hợp tòa án nhận được thông báo hoặc tự mình phát hiện tình tiết mới của vụ án thì phải thông báo ngay bằng văn bản kèm theo các tài liệu liên quan cho viện trưởng viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm.
Viện kiểm sát tiến hành xác minh những tình tiết mới hoặc yêu cầu cơ quan điều tra có thẩm quyền xác minh tình tiết mới của vụ án khi xét thấy cần thiết.
Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm được tiến hành theo thời gian luật định. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm được quy định tại Điều 401 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
“1. Tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được thực hiện trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27 của Bộ luật hình sự và thời hạn kháng nghị không được quá 01 năm kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện.
2. Tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và được thực hiện cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.
3. Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.”
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015