Mỗi ngành luật đều có các nguyên tắc đặc thù làm kim chỉ nam cho cả quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật, trong đó nguyên tắc suy đoán vô tội là nguyên tắc chỉ tồn tại ở ngành luật tố tụng hình sự- một nguyên tắc nhằm bảo vệ quyền công dân, quyền con người.
Mục lục bài viết
1. Suy đoán vô tội là gì?
Suy đoán được hiểu là sự giả định một vấn đề nào đó là đúng cho đến khi chưa bị bác bỏ. Như vậy, có thể suy đoán một vấn đề nào đó là đúng hoặc suy đoán một vấn đề nào đó là sai.
Suy đoán vô tội là một nguyên tắc cơ bản trong Tố tụng hình sự, được hiểu là tư tưởng chủ đạo, cơ bản mang tính xuất phát điểm, bảo đảm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không bị coi là có tội khi lỗi của họ chưa được cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và chưa có bản án kết tội của
Suy đoán vô tội trong Tiếng anh là “Presumption of innocence”.
2. Nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự:
Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2013 như sau :
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
Nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội:
Một là, người bị buộc tội được suy đoán vô tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Người bị buộc tội có quyền được suy đoán vô tội. Điều đó nghĩa là tuy đang bị buộc tội, đã tham gia vào tố tụng, chịu sự hạn chế nhất định về quyền tự do cá nhân theo quy định của pháp luật nhưng người bị buộc tội vẫn có quyền được coi như không phạm tội cho đến khi bản án kết tội của tòa án có hiệu lực pháp luật.
Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm và thông qua các thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử, điều tra công khai tại phiên tòa.
Suy đoán vô tội là quyền của người bị buộc tội, dẫn đến trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan buộc tội. Tuy nhiên, suy đoán ở đây không được hiểu theo nghĩa là hoạt động tư duy đơn thuần mà phải thể hiện thành hành vi cụ thể trong tố tụng hình sự được thực hiện trong suốt quá trình thực hiện hoạt động điều ta,, truy tố xét xử, trong việc áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và đưa ra các quyết định tố tụng. Người có thẩm quyền buộc tội không được đối xử với người bị buộc tội theo định kiến rằng họ là người phạm tội mà người lại, vẫn phải tôn trọng và bảo đảm các quyền của người bị buộc tội. Mọi sự cưỡng chế, hạn chế, ngăn chăn được áp dụng đối với người bị buộc tội trong tố tụng hình sự đều phải dựa trên cơ sở cần thiết theo đúng quy định của pháp luật.
Hai là, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội.
Cùng với việc khẳng định một người không thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án có hiệu lực pháp luật thì cũng có nghĩa thừa nhận người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình. Để xác định một người phạm tội, trên cơ sở đó truy cứ, áp dụng trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,Tòa án) phải chứng minh được người đó là người đã thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm. Nếu không chứng minh được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó. Chứng minh tội phạm là một quá trình diễn ra ở cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Nội đung của nguyên tắc suy đoán vô tội cũng chính là thực thi quyền im lặng đã được bao hàm trong đó.
Ba là, mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm đối với người bị buộc tội, nếu không bị loại trừ theo trình tự thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho họ.
Mục đích của luật tố tụng hình sự là tội phạm phải được phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Sự nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội là một trong những vấn đề mà cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải làm rõ trong quá trình chứng minh vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong thực tế, có thể xảy ra tình huống các chứng cứ buộc tội yếu, cả hai khả năng oan sai và bỏ lọt tội phạm cùng song song tồn tại mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết mà pháp luật quy định. Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực, không còn nghi ngờ. Nội dung này của nguyên tắc suy đoán vô tội thể hiện sự nhân đạo của pháp luật đối với người bị buộc tội.
Bốn là, bản án kết tội của tòa án không được dựa trên những giả định.
Giả định được hiểu là việc đưa ra một khả năng như có thật.
Trong hoạt động điều tra, chứng minh tội phạm giả định cần thiết và cũng thường được sử dụng để tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự. Tuy nhiên, giả định không được sử dụng làm cơ sở để đưa ra bản án kết tội vì bản án hình sự là văn bản pháp lý thể hiện kết quả áp dụng pháp luật về xét xử vụ án hình sự của Tòa án, là một nội dung rất quan trọng của hoạt động xét xử. Bản án kết tội của Tòa án đúng pháp luật, công bằng là tiền đề, điều kiện để đạt được mục đích của hình phạt.
Bốn nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau, thiếu một trong bốn nội dung thì nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ không được nhận thức đầy đủ.
3. Các quy định bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội:
3.1. Trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự:
– Về đối tượng suy đoán vô tội: Điều 55 BLTTHS năm 2015 bổ sung hai đối tượng thuộc diện người được suy đoán vô tội đó là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt. Đối tượng người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang. Đối tượng người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cùng với người bị tạm giư, bị can, bị cáo đều được BLTTHS quy định rõ quyền “Trình bày lời khai trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.” tại điều 58 đến điều 61.
– Quy định về quyền đưa chứng cứ của người bị buộc tội: Bị can hoặc người bào chữa có quyền cung cấp chứng cứ, quyền này tạo cơ sở cho việc thực hiện quyền của bị can trong tố tụng hình sự nhằm chứng minh sự vô tội của mình và có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện quyền bào chữa.
– Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định quyền khiếu nại của người bị tạm giữ, bị can về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có ý nghĩa quan trọng, buộc các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án phải nghiêm chỉnh tuân thủ các quy định của pháp luật.
– Quy định về nghĩa vụ chứng mình trong vụ án hình sự: Điều 85 quy định “Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh:” Như vậy điều luật đã khẳng định nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không phải là người bị buộc tội.
– Quy định khác:
Điều 98. Lời khai của bị can, bị cáo
1. Bị can, bị cáo trình bày những tình tiết của vụ án.
2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án.
Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.
3.2. Trong giai đoạn truy tố:
– Quy định về thời hạn truy tố: Việc pháp luật tố tụng hình sự quy định thời hạn quyết định truy tố thể hiện sự tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của bị can.
Điều 240. Thời hạn quyết định việc truy tố
1. Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định:
a) Truy tố bị can trước Tòa án;
b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.
Trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra một trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều này, Viện kiểm sát phải
Việc giao, nhận các văn bản nêu trên được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này và đưa vào hồ sơ vụ án.
Trường hợp vụ án phức tạp thì thời hạn giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can hoặc người đại diện của bị can có thể kéo dài nhưng không quá 10 ngày.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.