Nội dung thi hành án treo, án cải tạo không giam giữ: Ra quyết định hoặc ủy thác thi hành án treo, án cải tạo không giam giữ.
Nội dung thi hành án treo, cải tạo không giam giữ được xác định bởi tổng thể các quy định về quyền, nghĩa vụ của người bị kết án. Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức và gia đình của người chấp hành án trong việc giám sát, giáo dục họ. Trình tự, thủ tục thi hành án treo, cải tạo không giam giữ được bắt đầu ngay sau khi
Ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác thi hành án
Việc ra quyết định thi hành án ảnh hưởng trực tiếp tới các quyền cơ bản của công dân nên chỉ
1. Chánh án
2. Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác thi hành của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thì Chánh án Tòa án được ủy thác phải ra quyết định thi hành án….
Căn cứ vào quy định về việc giao, gửi bản án tại Điều 262 BLTTHS thì đối với bản án, quyết định của Tòa cấp phúc thẩm tuyên án thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định hoặc tuyên án Tòa cấp phúc thẩm phải chuyển cho Viện kiểm sát cùng cấp; cơ quan THAHS có thẩm quyền; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nơi đã xét xử sơ thẩm … Tương tự với trường hợp
Như vậy từ những quy định tại Điều 262 và Điều 364 BLTTHS có thể thấy thời hạn ra quyết định đối với Tòa cấp phúc thẩm có thể kéo dài lên đến 17 ngày và TAND cấp cao xét xử phúc thẩm có thể kéo dài lên đến 32 ngày. Tuy nhiên trong thực tế việc ra quyết định thi hành án có thể kéo dài hơn thời gian quy định trong BLTTHS với nhiều lý do. Trong đó có cả các lý do chủ quan lẫn khách quan như việc: Các cơ quan thực hiện việc chuyển giao bản án, quyết định ở các cấp sơ thẩm, phúc thẩm và TAND cấp cao xét xử phúc thẩm thực hiện không đúng thời gian chuyển giao bản án theo quy định; Việc chuyển bản án, quyết định có thể bị chậm chỗ do bưu điện hoặc bị thất lạc trong quá trình vận chuyển; Ngoài ra việc chậm trễ trong việc ra quyết định thi hành án còn có nguyên nhân khác như việc người chấp hành án có hộ khẩu và nơi cư trú khác nhau, nên việc ủy thác đến, rồi xác minh xong lại trả ủy thác và ủy thác đi mất rất nhiều thời gian … Vì vậy việc ra quyết định thi hành án trong các trường hợp ủy thác thường không đảm bảo thời gian theo quy định. Qua đó, việc quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ, đặc biệt là người chấp hành án cải tạo không giam giữ.
Trước đây tại Nghị định số 60,
Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách được xác định như sau:
1. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
2. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cũng cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
3. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thêm.
4. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại và Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. 5. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm để điều tra hoặc xét xử lại và sau khi xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần đầu.
5. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án sơ thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực.
6. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực.
7. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm hoặc Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Tuy nhiên thời điểm tính thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ đến nay vẫn không thay đổi ngoài căn cứ tại khoản 5, Điều 5 Nghị định số 60/2000/NĐ-CP. Dường như hình phạt cải tạo không giam giữ không được các nhà làm luật và Nhà nước ta quan tâm đầu tư nghiên cứu phát triển cho phù hợp. Có lẽ các nhà làm luật ở nước ta cho rằng thời điểm tính thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ như vậy là phù hợp với tính chất của loại hình phạt này. Tuy nhiên có thể nhận thấy bất lợi đối với người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ trong trường hợp bản án, quyết định thi hành án vì những lý do khách quan, chủ quan đã nêu trên chậm được chuyển đến cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người chấp hành án cải tạo không giam giữ thì họ sẽ thiệt thòi rất nhiều về thời gian chấp hành án. Từ nhận thức của tác giả nhận thấy cần sửa đổi bổ sung thêm các quy định pháp luật về phần thi hành án cải tạo không giam giữ để cải thiện phần quyền lợi của người thi hành loại án này. Để người chấp hành án cải tạo không giam giữ không bị ảnh hưởng đến quyền lợi như trong những trường hợp nêu trên.