Quyết định áp dụng hình phạt bổ sung và không cho hưởng án treo. Người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách thì không được hưởng án treo nữa và có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung.
Mục lục bài viết
1. Quyết định áp dụng hình phạt bổ sung:
Hình phạt bổ sung là những hình phạt thay thế, bổ sung cho hình phạt chính, góp phần răn đe, giáo dục người phạm tội. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung. Việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo là cần thiết, mang nhiều ý nghĩa, nó cũng là một hình thức cưỡng chế mà Nhà nước áp dụng để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời mang tính răn đe, phòng ngừa tội phạm.
Khoản 3 điều 60 BLHS năm 1999 quy định: “Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được quy định tại điều 30 và điều 36 của Bộ luật này”. Khoản 3 điều 65 BLHS năm 2015 thì hình phạt bổ đối với người được hưởng án treo được quy định “
Như vậy, về cơ bản quy định về hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo trong BLHS năm 2015 không có nhiều thay đổi so với BLHS năm 1999 về việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo. BLHS năm 1999 quy định phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định có thể là hình phạt bổ sung được áp dụng ngay khi chế tài của điều luật được áp dụng không quy định về các hình phạt này. Như vậy có thể áp dụng song song hình phạt bổ sung trên với hình phạt sung được quy định trong điều luật cụ thể. BLHS năm 2015 quy định hình phạt bổ sung có thể được áp dụng là hình phạt bổ sung được quy định cụ thể trong điều luật áp dụng và không quy định các hình phạt bổ sung cụ thể như BLHS năm 1999.
Việc áp dụng hình phạt bổ sung theo các quy định trên đối với người được hưởng án treo là một quy định tùy nghi không bắt buộc, phụ thuộc vào ý thức chủ quan của “
Quyết định áp dụng hình phạt bổ sung đối với người hưởng án treo đơn giản, dễ áp dụng hơn những vấn đề khác như quyết định thời gian thử thách, quyết định rút ngắn thời gian thử thách, quyết định không cho hưởng án treo, tổng hợp hình phạt, cách tính thời gian thử thách nên so với các quy định khác thì nội dung này ít có văn bản hướng dẫn hơn. Cho đến nay mới có một Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18/10/1990 hướng dẫn về việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo.
Như vậy, người được hưởng án treo bên cạnh phải chấp hành hình phạt chính là hình phạt tù nhưng được hưởng án treo thì có thể phải chịu thêm hình phạt bổ sung nếu điều luật áp dụng đối với hành vi phạm tội của người đó có quy định về hình phạt bổ sung này. Tuy nhiên, qua thực tế công tác tại địa phương cũng như qua nghiên cứu về mặt lý luận thì việc người bị kết án vi phạm về hình phạt bổ sung như việc người đó không chấp hành về hình phạt bổ sung chỉ được xem xét khi có vấn đề về xoá án tích chứ không đặt ra xem xét về trách nhiệm hình sự về việc vi phạm điều kiện của án treo là một bất hợp lý của pháp luật nước ta, chính vì vậy mà hiệu quả của bản án treo không được nghiêm minh.
2. Quyết định không cho hưởng án treo BLHS năm 1985 quy định:
Nếu trong thời gian thử thách người bị án treo phạm tội mới và bị xử phạt tù thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại khoản 2 Điều 42. BLHS năm 1999 quy định:
Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này [Điều 60, Khoản 5. BLHS năm 2015 quy định:
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
Như vậy, quy định về hậu quả pháp lý của người được hưởng án treo khi vi phạm quy định trong thời gian thử thách về cơ bản trong
– Có mặt theo giấy triệu tập và cam kết việc chấp hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này.
Thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong việc tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc, học tập; chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp vì lý do khách quan được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
Chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cư trú, nơi làm việc.
– Chấp hành quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự về việc vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được hưởng án treo.
Phải có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu.
– Hằng tháng phải báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình. Trường hợp vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật này thì khi hết thời hạn vắng.
Trường hợp người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ của người được hưởng án treo thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập biên bản vi phạm, đồng thời yêu cầu người được hưởng án treo phải có mặt trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm. Hết thời hạn này mà người được hưởng án treo vẫn không có mặt thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập biên bản vi phạm và đề nghị
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo đã bị kiểm điểm theo quy định tại Điều 91 của Luật thi hành án hình sự nhưng sau khi kiểm điểm vẫn tiếp tục vi phạm và đã được nhắc nhở bằng văn bản mà vẫn cố ý vi phạm thì Công an cấp xã đề xuất Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo, đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện tiến hành trình tự, thủ tục đề nghị Tòa án có thẩm quyền quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước nghĩa là hình phạt tù sẽ được thực hiện không kể hình phạt đối với tội mới là hình phạt gì. Khi người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách thì tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại điều 56 BLHS như sau:
1. Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.
2. Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phân hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
3. Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Với quy định trên việc quản lý những người chấp hành án treo trở nên chặt chẽ hơn, người được hưởng án treo phải nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ của mình, giúp cho việc quản lý của chính quyền địa phương đối với người chấp hành án treo thuận lợi hơn.
Quy định này cũng xuất phát từ thực tế quản lý những người chấp hành án treo, khi việc theo dõi đối tượng không thực hiện được thường xuyên ở các địa phương nên một số đối tượng tự ý bỏ đi khỏi nơi cư trú, không khai báo với chính quyền địa phương hoặc không làm