Quy phạm về sở hữu chính là các cơ sở để xác nhận và để bảo vệ các quyền lợi của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, việc sử dụng cũng như là định đoạt tài sản. Vậy quyền sở hữu tài sản là gì? Quyền sở hữu tài sản của công dân?
Mục lục bài viết
1. Quyền sở hữu tài sản là gì?
Quyền sở hữu được hiểu chính là một phạm trù pháp lý nhằm để phản ánh các quan hệ sở hữu ở trong một chế độ sở hữu nhất định, bao gồm là tổng hợp những quy phạm pháp luật về sở hữu nhằm để điều chỉnh những quan hệ sở hữu ở trong đời sống xã hội. Quy phạm về sở hữu chính là các cơ sở để xác nhận và để bảo vệ các quyền lợi của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, việc sử dụng cũng như là định đoạt tài sản.
Với tư cách là một chế định của pháp luật, quyền sở hữu chỉ ra đời khi mà xã hội có sự phân chia về giai cấp và có nhà nước. Pháp luật về sở hữu và nhà nước là có cùng một nguồn gốc và nó không thể tồn tại tách rời nhau, do đó mà nó sẽ mất đi khi không còn nhà nước.
Quyền sở hữu chính là quyền của duy nhất của chủ sở hữu đối với các tài sản; quyền sở hữu cũng chính là quyền tổng hợp của những quyền năng cụ thế đối với các tài sản, đó chính là quyền chiếm hữu, là quyền sử dụng và là quyền định đoạt.
Tại Điều 158
“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”
Như vậy, những chủ thể nào mà chỉ có được một hoặc là hai quyền đã nêu trên thì sẽ không được công nhận là chủ sở hữu đối với các tài sản mà họ chỉ là chủ thể có quyền khác đối với các tài sản theo như các quy định của Điều 159 của Bộ Luật Dân sự 2015 (Quyền khác đối với tài sản chính là quyền của các chủ thể trực tiếp nắm giữ, trực tiếp chi phối tài sản mà thuộc quyền sở hữu của các chủ thể khác. Quyền khác đối với tài sản bao gồm là: Quyền đối với các bất động sản liền kề; Quyền hưởng dụng; Quyền bề mặt)
Các quyền năng mà thuộc nội hàm của quyền sở hữu chỉ có thể chuyển giao đồng thời cho những người khác hoặc là chủ sở hữu có thế tách ra từng quyền năng ở trên để chuyển giao cho những chủ thể khác nhưng đó chỉ là chuyển giao có thời hạn. Như vậy những người mà có quyền khác đối với các tài sản mà có phạm vi quyền và thời hạn quyền thì chỉ có tính tương đối.\
2. Quy định về quyền sở hữu tài sản của công dân:
Như đã nói ở trên, thì quyền sở hữu bao gồm có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt các tài sản của chủ sở hữu theo các quy định của luật. Vì vậy, quyền sở hữu tài sản của công dân cũng chính là ba quyền năng trên hợp thành nội dung quyền sở hữu.
2.1. Quyền chiếm hữu:
Chiếm hữu chính là việc chủ thể nắm giữ, chi phối về tài sản một cách trực tiếp hoặc là gián tiếp như là chủ thể có quyền đối với tài sản.
Chiếm hữu bao gồm có chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người mà không phải là chủ sở hữu.
Việc chiếm hữu của người mà không phải là chủ sở hữu thì không thể là căn cứ để xác lập quyền sở hữu, trừ trường hợp là:
– Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu;
– Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy;
– Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên;
– Xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc;
– Xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc;
– Xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước;
– Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Chiếm hữu bao gồm có:
– Chiếm hữu ngay tình: chính là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có những căn cứ để tin rằng mình là người có quyền đối với các tài sản đang chiếm hữu;
– Chiếm hữu không ngay tình: chiếm hữu không ngay tình chính là việc chiếm hữu mà người đang chiếm hữu biết hoặc là phải biết rằng mình không có các quyền đối với tài sản đang chiếm hữu;
– Chiếm hữu liên tục:
+ Chiếm hữu liên tục: chính là việc chiếm hữu mà được thực hiện ở trong một khoảng thời gian mà không có các tranh chấp về quyền đối với các tài sản đó hoặc là có tranh chấp nhưng mà chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
+ Việc chiếm hữu không liên tục sẽ không được coi là những căn cứ để suy đoán về tình trạng và quyền của chính người chiếm hữu mà được quy định tại Điều 184 của Bộ luật này;
– Chiếm hữu công khai:
+ Chiếm hữu công khai chính là việc chiếm hữu mà được thực hiện một cách minh bạch và không giấu giếm; tài sản mà đang chiếm hữu sẽ được sử dụng theo tính năng, theo công dụng và được chính người chiếm hữu bảo quản và giữ gìn như tài sản của chính mình;
+ Việc chiếm hữu mà không công khai sẽ không được coi là những căn cứ để suy đoán về tình trạng và về quyền của người chiếm hữu đã được quy định tại Điều 184 của Bộ luật này.
Quyền chiếm hữu bao gồm những quyền sau:
– Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu: Chủ sở hữu sẽ được thực hiện mọi hành vi theo đúng ý chí của mình nhằm để nắm giữ, để chi phối tài sản của mình nhưng sẽ không được trái pháp luật, trái đạo đức xã hội;
– Quyền chiếm hữu của người mà được chủ sở hữu ủy quyền cho quản lý tài sản:
+ Người mà được chủ sở hữu ủy quyền cho quản lý tài sản sẽ được thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó ở trong phạm vi, theo cách thức và theo thời hạn do chủ sở hữu xác định;
+ Người mà được chủ sở hữu ủy quyền cho quản lý tài sản thì không thể trở thành chủ sở hữu đối với các tài sản được giao theo quy định ở Điều 236 của Bộ luật này.
– Quyền chiếm hữu của người mà được giao tài sản thông qua giao dịch dân sự:
+ Khi chủ sở hữu mà giao tài sản cho người khác thông qua các giao dịch dân sự mà những nội dung không bao gồm có việc chuyển quyền sở hữu thì người mà được giao tài sản sẽ phải thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó sao cho phù hợp với các mục đích, các nội dung của giao dịch.
+ Người mà được giao tài sản mà có quyền sử dụng về tài sản được giao, được phép chuyển quyền chiếm hữu, sử dụng các tài sản đó cho người khác nếu như được chủ sở hữu đồng ý.
+ Người mà được giao tài sản thì không thể trở thành chủ sở hữu đối với các tài sản được giao theo các quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.
2.2. Quyền sử dụng:
Quyền sử dụng chính là quyền khai thác các công dụng, được hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.
Quyền sử dụng sẽ có thể được chuyển giao cho những người khác theo đúng thỏa thuận hoặc là theo quy định của pháp luật.
– Quyền sử dụng của chủ sở hữu: Chủ sở hữu sẽ được sử dụng tài sản theo ý chí của chính mình nhưng phải không được gây thiệt hại hoặc là làm ảnh hưởng đến các lợi ích quốc gia, dân tộc, đến lợi ích công cộng, đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người khác.
– Quyền sử dụng của những người không phải là chủ sở hữu: Người mà không phải là chủ sở hữu sẽ được sử dụng tài sản theo đúng thỏa thuận với chủ sở hữu hoặc là theo quy định của pháp luật.
2.3. Quyền định đoạt:
Quyền định đoạt chính là quyền chuyển giao về quyền sở hữu tài sản, quyền từ bỏ quyền sở hữu, quyền tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.
Điều kiện thực hiện quyền định đoạt:
– Việc định đoạt tài sản phải do những người có năng lực hành vi dân sự thực hiện và không được trái quy định của pháp luật.
– Trường hợp mà pháp luật có quy định về trình tự, về thủ tục định đoạt tài sản thì sẽ phải tuân theo trình tự, thủ tục đó.
Quyền định đoạt của chủ sở hữu: Chủ sở hữu hoàn toàn có quyền bán, quyền trao đổi, quyền tặng cho, quyền cho vay, quyền để thừa kế, quyền từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu hủy hoặc là thực hiện những hình thức định đoạt khác mà phù hợp với các quy định của pháp luật đối với tài sản.
Quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu: Người mà không phải là chủ sở hữu của tài sản chỉ có quyền là định đoạt tài sản theo ủy quyền của chính chủ sở hữu hoặc theo các quy định của luật.
Hạn chế quyền định đoạt:
– Quyền định đoạt sẽ chỉ bị hạn chế ở trong trường hợp do luật quy định.
– Khi tài sản đem bán là các tài sản thuộc về di tích lịch sử – văn hóa theo các quy định của Luật di sản văn hóa thì Nhà nước sẽ có quyền ưu tiên mua.
Trường hợp là các cá nhân, các pháp nhân mà có quyền ưu tiên mua đối với các tài sản nhất định theo các quy định của pháp luật thì khi mà bán tài sản, chủ sở hữu sẽ phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó.
3. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản như thế nào?
Quyền sở hữu chính là một trong các quyền cơ bản và quan trọng nhất của các công dân, nên là pháp luật của các quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng cũng đều có những quy định để bảo vệ về quyền sở hữu của công dân nước đó. Điều 32
“Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”.
Tại Điều 163 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định về bảo vệ quyền sở hữu, theo điều này thì không ai có thể bị hạn chế hay bị tước đoạt trái luật về quyền sở hữu, về quyền khác đối với tài sản. Trường hợp mà thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc là vì lợi ích quốc gia, trong tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai thì Nhà nước sẽ trưng mua hoặc là trưng dụng có bồi thường về tài sản của các tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.
Chủ sở hữu hoàn toàn có quyền bảo vệ quyền sở hữu thông qua những phương thức sau:
– Tự mình thực hiện các hành vi bảo vệ quyền sở hữu
– Yêu cầu những người có các hành vi cản trở trái pháp luật đối với những việc thực hiện các quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt các hành vi vi phạm, và phải bồi thường thiệt hại
– Yêu cầu toà án hay các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc những người mà có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu, đến quyền chiếm hữu sẽ phải trả lại tài sản, phải chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện các quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Các văn bản pháp luật liên quan đến bài viết: Bộ Luật Dân sự 2015.