Skip to content
 19006568

Trụ sở chính: Số 89, phố Tô Vĩnh Diện, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

  • DMCA.com Protection Status
Home

  • Trang chủ
  • Lãnh đạo công ty
  • Đội ngũ Luật sư
  • Chi nhánh ba miền
    • Trụ sở chính tại Hà Nội
    • Chi nhánh tại Đà Nẵng
    • Chi nhánh tại TPHCM
  • Pháp luật
  • Dịch vụ Luật sư
  • Văn bản
  • Biểu mẫu
  • Danh bạ
  • Giáo dục
  • Bạn cần biết
  • Liên hệ
    • Chat Zalo
    • Chat Facebook
    • Đặt câu hỏi
    • Yêu cầu báo giá
    • Đặt hẹn Luật sư

Home

Đóng thanh tìm kiếm

  • Trang chủ
  • Đặt câu hỏi
  • Đặt lịch hẹn
  • Gửi báo giá
  • 1900.6568
Dịch vụ luật sư uy tín toàn quốc
Trang chủ Pháp luật

Quyền lực Nhà nước và các thể chế thương mại quốc tế

  • 24/07/202424/07/2024
  • bởi Luật sư Nguyễn Văn Dương
  • Luật sư Nguyễn Văn Dương
    24/07/2024
    Theo dõi chúng tôi trên Google News

    Bất chấp những cáo phó gần đây của chủ quyền quốc gia và vai trò trung tâm của nhà nước trong các vấn đề quan hệ quốc tế, các quốc gia vẫn là nhân tố chủ yếu trong hệ thống quốc tế. Chỉ có các quốc gia và các biên giới hải quan, và không có thực thể nào khác, mới có chỗ đứng trong WTO.

      Mục lục bài viết

      • 1 1.Quyền lực Nhà nước và các thể chế thương mại quốc tế:
      • 2 2. Các nhân tố phi nhà nước và cấu trúc thể chế trong nước:
      • 3 3. Các tư tưởng và cấu trúc của thể chế:

      1.Quyền lực Nhà nước và các thể chế thương mại quốc tế:

      Các thể chế quốc tế là những tổ chức tự nguyện; các quốc gia tuân thủ các nghĩa vụ xuất phát từ lợi ích riêng của mình. Với một thể chế gồm nhiều quốc gia có chủ quyền chúng ta có thể kỳ vọng rằng các quá trình ra quyết sách sẽ hoặc là phản ánh chính thức lợi ích của các quốc gia hùng mạnh, hoặc sẽ được bổ sung bởi hành động không chính thức qua đó biểu thị sức mạnh của họ.

      Tuy nhiên, một quốc gia đang thực hiện “quyền lực” sẽ đặt ra thách thức đối với cách lập luận này. Trong khi có sự đồng thuận về định nghĩa quyền lực là khả năng làm cho người khác phải làm điều họ không làm, thì việc đo lường là một vấn đề khác (Keohane và Nye 1977). Một số nhà phân tích đánh giá quyền lực quốc gia một cách tổng thể, có tính đến sức mạnh quân sự và sức mạnh kinh tế để phân chia các nước thành “các cường quốc” hay không phải cường quốc (Waltz 1979; Gilpin 1981). Nhưng trong bối cảnh các cuộc đàm phán cụ thể, như các cuộc đàm phán thương mại, trong đó chỉ có một khía cạnh của quyền lực là có thể gây ảnh hưởng, thì cách đo lường sức mạnh cần phải tùy từng trường hợp.

      Trong việc phân tích các quan hệ thương mại, quy mô thị trường khả năng để mở cửa hay đóng cửa thị trường – có thể tạo ra sức mạnh mặc cả đầu tiên tốt nhất (Steinberg 2002b). Hầu hết các nhà khoa học chính trị và các nhà kinh tế thương mại cho rằng các chính phủ đều coi việc mở cửa thị trường nước ngoài và kèm theo đó là tăng cường các cơ hội xuất khẩu là có lợi cho chính trị trong nước và việc mở cửa thị trường trong nước là cái giá phải trả (Schattschneider 1935; Bauer, de Sola Pool, và Dexter 1963; Putnam 1988). Từ đó, chẳng hạn, các cơ hội xuất khẩu càng lớn, thì lợi ích chính trị trong nước dành cho chính phủ của nước có các cơ hội đó càng nhiều. Mở cửa thị trường và đóng cửa thị trường được các nước coi trọng như vấn đề tiền tệ trong đàm phán thương mại trong thời kỳ sau chiến tranh (Hirschman 1945; Waltz 1970; Krasner 1976).

      Bất kể cuộc mặc cả thương mại diễn ra dưới hình thức cùng hứa hẹn mở cửa thị trường, đe dọa đóng cửa thị trường hay kết hợp cả hai, thì các thị trường lớn hơn và phát triển hơn sẽ có lợi thế trong đàm phán thương mại hơn các thị trường nhỏ hơn. Mức độ tác động của kinh tế và chính trị trong nước đến sự thay đổi về tiếp cận thương mại sẽ thay đổi theo tỷ lệ ngược với quy mô của nền kinh tế quốc gia. Các nền kinh tế có quy mô lớn hơn sẽ có nhiều khả năng tốt hơn cho thương mại trong nước so với các nền kinh tế nhỏ hơn. Giá trị xuất khẩu tăng thêm sẽ đem lại nhiều phúc lợi và việc làm cho các nước nhỏ hơn là các nước lớn. Về hậu quả chính trị, với cùng mức độ tự do hóa thương mại nhất định thì lợi ích về chính trị nội bộ cho chính phủ các nước lớn hơn sẽ nhỏ hơn. 20 nước có tỷ trọng thương mại cao nhất thế giới và 20 nước phụ thuộc nhiều nhất vào thương mại thế giới. Không có nước nào trong số năm nước có tỷ trọng thương mại cao nhất nằm trong danh sách các nước phụ thuộc nhiều nhất vào thương mại: các nước nhỏ hơn phụ thuộc vào thương mại nhiều hơn. Vì vậy, các nước nhỏ hơn có thể “sốt sắng” hơn trong việc đạt được thỏa thuận về tự do hóa thương mại so với các nước lớn hơn. Tương tự, trong các cuộc đàm phán tự do hóa thương mại, thì khả năng nội thương của các nước lớn hơn, phát triển hơn sẽ giúp họ có được “phương án tốt nhất cho một thỏa thuận trong đàm phán” hơn là các nước nhỏ hơn.

      Ngược lại, trong các cuộc đàm phán đòi hỏi phải đưa ra sự răn đe về đóng cửa thị trường, thì sự răn đe đánh mất đi một lượng xuất khẩu nhất định sẽ là một chiến lược kém tác dụng hơn khi áp dụng chống lại nước lớn so với nước nhỏ. Từ đó, một điều chắc chắn là các nền kinh tế đã phát triển với thị trường lớn sẽ có sức mạnh lớn trong một hệ thống thương mại mở cửa nhờ có nhiều phương án chi phí cơ hội khi đóng cửa thị trường với các đối tác thương mại (Krasner 1976).

      Theo cách này, Hoa Kỳ phải được coi là quốc gia chi phối nhất trong việc định hình các thể chế GATT và WTO trong suốt lịch sử của nó. Tuy nhiên, vai trò của Hoa Kỳ đã suy giảm đi nhiều, và nó không ngừng cần hợp tác với các cường quốc khác để cai quản hệ thống này. Trong khi Hoa Kỳ có thể là một nước bá chủ về các vấn đề an ninh, hiện giờ nước này phải chia sẻ quyền lực với EC về vấn đề thương mại. Hình 1.3 cho thấy tỷ trọng GDP của Hoa Kỳ và EC so với GDP của tất cả các nước thành viên GATT/WTO từ năm 1947 đến năm 2001. Trong khi các con số này chỉ là sự ước lượng sức mạnh trong hệ thống thương mại (chẳng hạn, nó không tính đến hệ quả sự sụp đổ của Liên Xô hay quy mô tăng lên hay sự mở rộng các thành viên GATT/ WTO), biểu đồ minh họa sự mất đi tương tác sức mạnh thị trường của Hoa Kỳ và sức mạnh tăng lên của EC trong GATT/WTO từ năm 1947. Năm 1948, năm đầu tiên GATT có hiệu lực, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Hoa Kỳ chiếm khoảng 65% tổng GDP của tất cả các thành viên GATT, và kết hợp GDP của Hoa Kỳ và Anh chiếm đến 75% GDP của tổng số các nước thành viên. Đến năm 1970 tỷ trọng GDP của Hoa Kỳ trong GDP của GATT giảm xuống còn 46%, và tỷ trọng của EC là 14%; do vậy, vào đầu những năm 1970, các nhà phân tích chính trị nhận xét rằng GATT là do Hoa Kỳ và EC điều hành (Curzon và Curzon 1973).

      Xem thêm:  Sự thực thi và giải quyết tranh chấp theo luật tư pháp của WTO

      Khi bước sang thiên niên kỷ mới, tỷ trọng GDP của Hoa Kỳ tiếp tục giảm, trong khi thị trường EC lớn gần bằng với Hoa Kỳ: năm 2000, GDP của Hoa Kỳ chiếm khoảng 33% tổng GDP của tất cả các thành viên WTO và GDP của EC chiếm khoảng 31%. Tỷ trọng của liên kết “Tứ hùng” (Hoa Kỳ, EC, Nhật Bản và Canada) chiếm khoảng 81% tổng GDP của WTO.10 Sự suy giảm tương đối về quy mô thị trường của Mỹ có thể quy cho số lượng các quốc gia thành viên của GATT/WTO tăng lên: tổ chức này đã tăng từ 19 thành viên năm 1948 lên 145 năm 2002. Tỷ trọng của EC tăng lên một phần là do sự mở rộng của tổ chức này. Như vậy, sức mạnh của Hoa Kỳ tại GATT/WTO theo chiều hướng giảm đi, và sự hợp tác của Hoa Kỳ với các đối tác khác đặc biệt là EC – đã trở nên rất quan trọng để định hình các thể chế của WTO.

      Sự thay đổi về cơ cấu quyền lực này đã không kèm theo sự thay đổi các quy tắc thể chế cơ bản hay các thông lệ cơ bản của tổ chức GATT/WTO. Hơn nữa, những sự thay đổi về các quy tắc pháp lý và thông lệ dường như không có quan hệ trực tiếp

      đến sự thay đổi quyền lực này. Một số quy tắc lập pháp chính thức qua rất nhiều năm mới chỉ đụng đến qua loa: chẳng hạn, nay đòi hỏi phải có ba phần tư số thành viên WTO mới có quyền miễn trừ một điều luật, thay vì hai phần ba số thành viên như quy định trong hệ thống GATT. Nhưng hầu hết các quy tắc lập pháp chính thức về cơ bản là không thay đổi – một nước một lá phiếu; quy tắc đa số được áp dụng đối với “hành động tập thể” của các nước thành viên; quy tắc nhất trí khi muốn sửa đổi Phần I của GATT (quy tắc đối xử tối huệ quốc); quy tắc đa số ba phần tư số phiếu khi muốn sửa đổi bất cứ phần nào của GATT. Và thông lệ lập pháp chủ yếu đã không có sự thay đổi gì từ những năm 1950: bất chấp các quy tắc chính thức đã được liệt kê, hầu hết các hành động của GATT/WTO đều dựa trên cơ sở sự “đồng thuận” của các nước thành viên nghĩa là một nghị quyết đưa ra sẽ được thực hiện nếu không có thành viên nào chính thức phản đối (Steinberg 2002a).

      2. Các nhân tố phi nhà nước và cấu trúc thể chế trong nước:

      Chúng tôi đã trình bày cứ như là các nước hay các chính phủ có “những lợi ích” rõ ràng hay được hiểu rõ trong việc ra quyết sách về thương mại quốc tế. Nhưng việc hiểu rõ được các lợi ích quốc gia không phải việc dễ. Các lợi ích thường nằm ngoài các mô hình “thuần khiết” của các quan hệ quốc tế: ngoài sự sống còn chỉ có một vài lợi ích, là được các quốc gia nêu rõ. Cần phải có một số lý thuyết, điều tra nghiên cứu hay giả thuyết về các lợi ích để bổ sung cho cách tiếp cận quốc tế thuần khiết.

      Cách tiếp cận phân tích phổ biến nhất là gắn câu chuyện quốc tế lấy quốc gia làm trung tâm với mô hình chính trị nội bộ tự do của việc hình thành sự ưu tiên quốc gia (Moravcsik 1991, 1997). Do vậy, những phân tích chính trị cổ điển chính sách thương mại quốc tế trong thế kỷ XX thường là những câu chuyện nói về các nhân tố có quyền lực nội bộ ở Hoa Kỳ hay châu Âu – các tổ chức kinh doanh và các hiệp hội thương mại – đã định hình chính sách thương mại quốc gia như thế nào (Schattschneider 1935; Bauer, de Sola Pool, và Dexter 1963). Các nhà kinh tế thường dựa vào lập luận này, phân tích các hậu quả của việc bảo vệ các lợi ích đặc biệt đối với loại hàng hóa lớn hơn. Kết quả thường là sự giải thích có “hai mức độ” các nhân tố có ảnh hưởng đến các thể chế quốc tế và các lợi ích đang có: một câu chuyện chính trị nội bộ nói về các lợi ích quốc gia được xác định như thế nào và một câu chuyện quốc tế nói về các quốc gia hùng mạnh bảo vệ các lợi ích quốc gia của họ ra sao (Putnam 1988).

      Sự phân tích khía cạnh chính trị nội bộ của vấn đề thương mại nên bắt đầu bằng việc giải thích cơ sở pháp lý của việc sắp đặt thể chế nội bộ dẫn đến những ưu tiên thương mại. Các quy tắc và thủ tục trong nước phản ánh tiếng nói của các nhóm lợi ích thương mại như thế nào? Các nhóm lợi ích có được khuyến khích để có tiếng nói hay không? Các chính sách của chính phủ có giải thích được sự thay đổi trong việc thúc đẩy tổ chức hay không? Ví dụ, nếu luật pháp trong nước không tạo cơ hội hay dành ưu đãi cho tổ chức của các nhóm lợi ích (chẳng hạn, không có quyền mặc cả tập thể), thì các nhóm lợi ích đó chắc chắn sẽ không có tổ chức và yếu kém. Và dù các luật pháp trong nước tạo các cơ hội và những ưu đãi khuyến khích cho tổ chức của các nhóm lợi ích, nhưng họ bị loại khỏi các quá trình ra quyết sách thương mại quốc gia, thì chính sách thương mại được làm ra và các thể chế gắn liền với nó sẽ gặp phải sự chống đối chính trị nội bộ liên miên từ các tác nhân bị loại bỏ. Để tạo ra một chính sách thương mại quốc gia được sự ủng hộ rộng rãi, các thể chế chính trị trong nước phải dung hòa giữa các lợi ích của tất cả các nhóm lợi ích có tổ chức.

      Xem thêm:  Pháp luật cạnh tranh trong hoạt động thương mại quốc tế sau khi Việt Nam gia nhập WTO

      Để duy trì sự ủng hộ đối với tự do hóa thương mại, các thể chế trong nước và quốc tế phải cùng nhau giải quyết vấn đề có lợi ích chung và lợi ích gián tiếp theo con đường không bảo hộ. Có thể sử dụng nhiều cơ chế để tạo thuận lợi cho việc liên kết các nhóm lợi ích ủng hộ tự do hóa thương mại hơn là để cho các nhóm lợi ích ủng hộ bảo hộ chi phối. Ví dụ, các quá trình thiết lập hiệp định và thực thi hiệp định mà khuyến khích một chính phủ đưa ra các chính sách mở cửa thị trường cả gói có đi có lại sẽ có nhiều khả năng tập hợp được sự ủng hộ mạnh mẽ đối với tự do hóa thương mại hơn là các quá trình chỉ xem xét nhỏ giọt từng yếu tố của thỏa thuận cả gói (Bailey, Goldstein và Weingast 1997).

      Những dàn xếp thể chế trong nước và quốc tế cần phải được phân tích đồng thời. Chúng cần được tiến hành một cách nhất quán và hỗ trợ lẫn nhau, nếu không thì sẽ là trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Chẳng hạn, khi một chính phủ nước ngoài không tuân thủ nghĩa vụ WTO của mình và việc không tuân thủ đó làm vô hiệu hóa hoặc có hại đến các lợi ích mà lẽ ra Hoa Kỳ được hưởng, thì các quy tắc xử lý tranh chấp của WTO có thể được áp dụng kết hợp với đạo luật của Hoa Kỳ (Mục 301 của Luật Thương mại năm 1974, như đã sửa đổi) để đi đến các biện pháp trả đũa thương mại nhằm làm tăng khả năng tuân thủ các nghĩa vụ WTO của chính phủ nước ngoài đó (Goldstein và Martin 2000; Martin 2000).

      Các thể chế trong nước và quốc tế liên quan đến thương mại không những cần hoạt động phối hợp với nhau một cách có hiệu quả, mà còn phải làm như vậy trong thời gian dài. Chẳng hạn, việc mở rộng GATT/WTO đã làm tăng sự phân tán các nước là thành viên GATT/WTO và sự phân tán tăng lên đó đã hạn chế thể chế đa phương. Phần lớn các nước thành viên đầu tiên của GATT 1947 là các nước có nền kinh tế tư bản đã phát triển. Các nước gia nhập từ đầu những năm 1950 thuộc vào loại khác – đó là những nước đang phát triển, và bây giờ, các nước đang chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang một hình thức của tư bản chủ nghĩa. Hơn một trăm nước thành viên WTO trong tổng số 150 thành viên là các nước đang phát triển. Sự phân tán gia tăng trong cơ cấu thành phần WTO làm tăng các vấn đề thể chế. Chẳng hạn, thử so sánh giữa việc giảm thuế quan và việc điều hòa chính sách cạnh tranh xét từ góc độ các nhu cầu đối với các nước tham gia. Về mặt chính trị, các cuộc đàm phán về giảm thuế quan đòi hỏi nhà thương thuyết của một nước phải cân bằng các đòi hỏi của các đối thủ cạnh tranh về nhập khẩu và các nhà sản xuất hướng về xuất khẩu – đây không phải là việc nhỏ, mà là một việc có thể khả thi. Về mặt quản lý nhà nước, việc hạ thấp mức thuế quan chỉ cần thay đổi mức quy định hiện hành (cơ quan hải quan). Không đòi hỏi phải có hành động pháp lý, có lẽ ngoại trừ xem xét lại các quy trình giảm thuế quan.

      Ngược lại, đối với việc điều hòa chính sách cạnh tranh đòi hỏi hầu hết các nước phải có thể chế mới của chính phủ; sự thực thì chính sách đó đòi hỏi thiết lập quy tắc luật pháp; và bản thân chính sách này là những thách thức tiềm tàng đối với cơ cấu công nghiệp của nền kinh tế quốc gia – tức là những thách thức gay go cả về chính trị, pháp lý và quản lý nhà nước. Đối với các quy định và các nguyên tắc thực hiện nhiều chức năng thương mại mới, có thể cách tiếp cận “một kích cỡ dùng cho tất cả” là không thích hợp và có thể đòi hỏi một hệ thống có hai tốc độ hay nhiều tốc độ. Các quy tắc và thủ tục cần phải tính đến thực lực khác nhau của các quốc gia.

      Tương tự, sự tự do hóa thương mại thường dẫn đến các đòi hỏi tự do hóa hơn về chuyên môn và chính trị (Haas 1958; Burley và Mattli 1993). Ví dụ, việc loại bỏ thuế quan và hạn ngạch – từng là một định nghĩa cổ điển về tự do hóa thương mại – phơi bày hệ quả hạn chế thương mại của các quy định có tính kỹ thuật khác nhau diễn ra ở các nước, tạo ra nhu cầu cần đạt được thỏa thuận quốc tế về những điều tạo ra hàng rào kỹ thuật hợp pháp đối với thương mại. Những sự “lan tràn” khỏi tự do hóa thương mại trước đây đòi hỏi sự thay đổi về thể chế không chỉ vì có những chức năng mới cần được thực hiện, mà còn vì chúng kéo theo sự tham gia của các nhân tố mới vào khía cạnh chính trị của hệ thống. Những chức năng mới và những vấn đề nảy sinh thường không phải chỉ dựa vào nguyên tắc: chúng đã trở thành những vấn đề mới bởi vì các bên có lợi ích đã đưa chúng ra diễn đàn. Chẳng hạn, khi mà các biện pháp biên giới đã sụp đổ, các tổ chức công đoàn đã đưa ra các vấn đề thương mại bổ sung – bảo vệ môi trường và các quyền lợi của người lao động. Một vấn đề thể chế lúc ban đầu là làm thế nào để tiếp nhận những nhân tố mới này vào hệ thống chính trị sẽ chi phối thương mại toàn cầu. Các nhân tố mới này cần phải được tạo ra diễn đàn để tham gia hoặc ở mức độ quốc gia hoặc tại WTO, và những lợi ích của chúng phải sánh ngang với lợi ích của các nhân tố khác – nếu không chắc chắn họ sẽ cứ ở trên đường phố, phản đối lại hệ thống.

      3. Các tư tưởng và cấu trúc của thể chế:

      Những sự thay đổi trong môi trường có thể là về nhận thức hay là vật chất. Các thể chế có thể đương đầu với sự thay đổi trong các cấu trúc về tư tưởng, cả bên trong tổ chức của thể chế lẫn trong môi trường hoạt động của nó. Từ cơ sở vật chất thuần túy, thường không thể nào hiểu được cả sự lựa chọn các quy tắc cụ thể lẫn các thủ tục và sự thúc đẩy thay đổi. Chẳng hạn, có thể đúng khi nói rằng Hoa Kỳ chi phối hình thức lúc đầu của nhiều thể chế sau chiến tranh, nhưng chỉ có sự phân tích các mục tiêu và các chiến lược của Hoa Kỳ mới đưa đến sự giải thích cho những quyết định cụ thể đã được đưa ra (Goldstein 1993).

      Xem thêm:  Tính chất pháp quyền của WTO - Xu hướng tự do hóa làm luật tư pháp

      Những dàn xếp thể chế hiện diện trong GATT 1947 phản ảnh tầm nhìn thế giới sau chiến tranh xuất hiện ở Hoa Kỳ và Anh. Các nhà ngoại giao của hai nước này muốn thiết lập các quy tắc và lập ra một tổ chức quốc tế có thể tránh được việc lặp lại thảm họa đóng cửa thương mại thế giới được tượng trưng bởi Đạo luật thuế quan Smoot-Hawley, từng làm cuộc Đại suy thoái kinh tế trầm trọng thêm. Nhưng họ nhận ra rằng các thực tại chính trị nội bộ đương thời có thể làm cho chủ nghĩa tự do chính thống không khả thi: một số chính sách bảo hộ là một thiết yếu chính trị. Chẳng hạn, Quốc hội Hoa Kỳ đẻ ra một loạt đạo luật để bảo hộ các nhà sản xuất trong nước. Còn nước Anh thì bác bỏ các yêu cầu của Hoa Kỳ và không chịu từ bỏ sự thiên vị dành cho Vương quốc Anh và Khối thịnh vượng chung.

      Về thực chất, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh gặp nhau không phải trên cơ sở quy tắc và nguyên tắc của tự do thương mại thuần túy, mà là một hệ thống nhằm chuyển động theo phương hướng tự do, với những nỗ lực không ngừng giảm thuế quan có đi có lại và khóa chặt sự cắt giảm thuế quan đó trong khi đồng thời duy trì nhiều hình thức bảo hộ khác nhau (Ruggie 1983). Đứng về mặt tổ chức, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ và Anh cố gắng lập ra một Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO), là tổ chức sẽ được thiết lập thông qua Hiến chương Havana. Vào năm 1951, một điều trở nên rõ ràng là Quốc hội Hoa Kỳ sẽ không phê chuẩn Hiến chương Havana, do đó nó không được trình ra Quốc hội Hoa Kỳ và không bao giờ tồn tại (Jackson 1969). GATT – một văn kiện chủ yếu do các nhà ngoại giao Hoa Kỳ và Anh đàm phán với nhau, chưa bao giờ được Quốc hội Mỹ chính thức thông qua, trong đó chứa đựng những quy tắc cai quản yếu ớt và mơ hồ, và chỉ có 22 các nước thành viên sáng lập – được sử dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại đa phương.

      Cũng như các tướng lĩnh áp dụng kế hoạch chiến tranh dựa vào cách thức tiến hành của cuộc chiến tranh đã qua thường bị lúng túng trước một trận chiến mới, các thể chế quốc tế được thiết lập ra nhằm khắc phục sai lầm của các chính sách trước đây và của những dàn xếp mang tính thể chế có thể không được trang bị đầy đủ để xử lý những vấn đề cấp bách mới xuất hiện. Những nhà soạn thảo GATT lập ra các quy tắc, các nguyên tắc, và thủ tục nhằm thu hồi các biện pháp biên giới đã từng là công cụ của các chính sách bần cùng hóa láng giềng (beggar-thy-neighbor policies) của những năm 1930. Mục tiêu này phần lớn đã đạt được. Nhưng các hiệp hội thương mại, các nhà hoạch định chính sách thương mại và các quốc gia lại hành động có chiến lược, và mọi sự sắp đặt thể chế nhất định sẽ tạo ra các cơ hội cho hành vi chiến lược nhằm đem lại lợi thế cho những người tham gia.

      Chẳng hạn, chủ nghĩa trọng thương (Mercantilism) của những năm 1980 và 1990 trông rất khác với các cuộc chiến thương mại của những năm 1930. Trong thời gian gần đây, “khả năng cạnh tranh” tương đối của các hệ thống kinh tế quốc gia đã trở thành một thước đo cho chính sách thương mại tốt đối với nhiều nước. Nhiều học giả đã nhận diện căn cứ mới cho các chính sách quốc gia nhằm nuôi dưỡng sự phát triển hoặc duy trì một ngành kinh tế cụ thể (Tyson 1992; Cohen và Zysman 1987; Krugman 1991). “Lý thuyết thương mại chiến lược” được đặt trên cơ sở ý tưởng mà các nhà phân tích có thể nhận diện “các ngành kinh tế chiến lược” là những ngành hứa hẹn lợi tức cao và những yếu tố tích cực bên ngoài không dính dáng đến các nhân tố khác. Với các biện pháp biên giới truyền thống – thuế quan và hạn ngạch được quy định nghiêm ngặt bởi các quy tắc của GATT, các quốc gia có thể sử dụng các chính sách công nghiệp để ngăn cản nhập khẩu hoặc duy trì đồng tiền được định giá thấp hơn giá trị thực để thúc đẩy xuất khẩu, nhằm xây dựng và duy trì các ngành kinh tế chiến lược (Prestowitz 1988). Những chính sách này đối với nhiều người có vẻ như là chính sách tân trọng thương mâu thuẫn với nguyên tắc “tự do thương mại” cơ bản mà GATT lấy làm cơ sở. Tuy nhiên những chính sách này vẫn chưa được điều chỉnh một cách hữu hiệu bởi các quy tắc của GATT.

      Tương tự, nhiều vấn đề được nêu ra trong khuôn khổ của Vòng Doha về đàm phán thương mại có liên quan đến hệ quả của thương mại hơn là hệ quả lên thương mại. Hầu hết các cuộc tranh luận về chính sách thương mại trong thời gian 40 năm đầu tiên của hệ thống GATT/WTO được tập trung vào các chính sách quốc gia tạo ra các rào cản đối với thương mại. Từ năm 1990, các cuộc tranh luận đã mở rộng sang xem xét các nguyên tắc, các quy tắc và thủ tục về mối quan hệ giữa thương mại với môi trường, lao động có tổ chức, nhân quyền. Phạm vi của cuộc thảo luận đã được mở rộng.

      Trên đây là bài viết của Luật Dương Gia về Quyền lực Nhà nước và các thể chế thương mại quốc tế thuộc chủ đề WTO, thư mục Pháp luật. Mọi thắc mắc pháp lý, vui lòng liên hệ Tổng đài Luật sư 1900.6568 hoặc Hotline dịch vụ 037.6999996 để được tư vấn và hỗ trợ.

      Duong Gia Facebook Duong Gia Tiktok Duong Gia Youtube Duong Gia Google
      Gọi luật sư
      TƯ VẤN LUẬT QUA EMAIL
      ĐẶT LỊCH HẸN LUẬT SƯ
      Dịch vụ luật sư toàn quốc
      Dịch vụ luật sư uy tín toàn quốc
      CÙNG CHỦ ĐỀ
      ảnh chủ đề

      Đồng thuận nghịch là gì? Cơ chế giải quyết tranh chấp WTO

      Hiện nay, tranh chấp xuyên quốc gia xuất hiện ngày càng khó giải quyết. Do đó, các quốc gia cần có cơ chế giải quyết tranh chấp và về vấn đề đồng thuận đặc biệt là đồng thuận nghịch giữa các quốc gia. Vậy, đồng thuận nghịch là gì? Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO?

      ảnh chủ đề

      WTO là gì? Chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Tổ chức mậu dịch quốc tế WTO

      Tổ chức Thương mại Thế giới là tổ chức quốc tế đề ra và giám sát những qui tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế giới, với nỗ lực chính nhằm mở rộng hoạt động thương mại toàn cầu. Cùng tìm hiểu WTO là gì? Chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Tổ chức mậu dịch quốc tế WTO.

      ảnh chủ đề

      Các cam kết và lộ trình thực hiện cam kết WTO của Việt Nam

      Giới thiệu chung về WTO? Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết mở cửa nền kinh tế như thế nào? Lộ trình thực hiện các cam kết ra sao? Các cam kết của Việt Nam trong WTO và lộ trình thực hiện các cam kết?

      ảnh chủ đề

      Biểu cam kết thương mại dịch vụ WTO của Việt Nam mới nhất

      Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Một trong những bước ngoặt là việc chính thức trở thành thành viên của WTO. Khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam đã cam kết và nghiêm túc thực hiện các cam kết của mình trong tất cả các lĩnh vực.

      ảnh chủ đề

      Giải quyết tranh chấp về lĩnh vực chống phá giá của WTO

      Biện pháp chống bán phá giá thường được quy định là đánh thuế quan bổ sung lên sản phẩm bị coi là bán phá giá nhằm đẩy giá của sản phẩm đó ngang bằng với “giá trị bình thường” hoặc nhằm chấm dứt thiệt hại mà ngành sản xuất của nước nhập khẩu phải chịu. Cùng bài viết dưới đây tìm hiểu nhé.

      ảnh chủ đề

      Ưu và nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp WTO

      Cơ chế giải quyết tranh chấp WTO là một cơ chế đa phương được thiết lập để giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên WTO. Vậy Ưu và nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp WTO là gì?

      ảnh chủ đề

      Chính trị thương mại tại WTO có phải là chính trị “cấp thấp”?

      Sự gia tăng rộng rãi việc luân chuyển hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác trong những năm sau Thế chiến thứ hai vừa là nguyên nhân vừa là biểu hiện của công cuộc toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Công cuộc gia tăng thương mại lần này làm cho sự gia tăng thương mại xảy ra một thế kỷ trước đó trở nên hết sức nhỏ bé; đồng thời biểu hiện một kỷ nguyên mới trong đó sản xuất và thương mại quyện chặt vào nhau hết sức phức tạp.

      ảnh chủ đề

      Đại diện tại WTO: Quy trình lập pháp, Quy trình tư pháp

      Bình thường các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ tham gia vào quy trình làm luật của WTO chủ yếu thông qua các nỗ lực tác động tới lập trường thương thuyết ban đầu của quốc gia (và của EU).

      ảnh chủ đề

      Quy trình thể chế trong nước về đại diện quyền lợi và làm trung gian

      Xem xét những quy trình mang tính thể chế đối nội cho quyền đại diện và sự trung hòa các quyền lợi của những nhà hoạt động phi nhà nước mới, chú ý những thay đổi gần đây nhằm nâng cao tính hợp pháp và tính bền vững chính trị của việc hoạch định chính sách thương mại trong nước.

      ảnh chủ đề

      “Sự thiếu đại diện” cho các lợi ích của các nhân tố phi Nhà nước mới

      Một số nhà hoạt động và nhà bình luận phi nhà nước mới nhiều lần ca thán rộng rãi “sự khiếm khuyết về dân chủ” ở WTO, tập trung ở sự thiếu tính minh bạch đối với bên ngoài (nghĩa là, tính kín đáo của WTO) và những cơ hội ít ỏi dành cho sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ vào công cuộc hoạch định chính sách thương mại và dàn xếp tranh chấp (Wallach 2000; Atik 2001; Raustiala 2000; Charnovitz 2002).

      Xem thêm

      -
      CÙNG CHUYÊN MỤC
      • Mua, sử dụng đất trồng lúa để xây khu phần mộ được không?
      • Doanh nghiệp mới thành lập được miễn thuế môn bài không?
      • Điều kiện thủ tục miễn thuế thu nhập cá nhân khi bán nhà đất
      • Mượn tài sản người khác mà không trả có bị phạt tù không?
      • Cách xác định mã số hàng hóa và khai báo trên tờ khai hải quan
      • Nghỉ giải lao là gì? Quy định giờ nghỉ giải lao giữa giờ tối thiểu?
      • Thời hạn được tạm ngừng kinh doanh tối đa trong bao lâu?
      • Hứa mua hứa bán là gì? Mẫu hợp đồng hứa mua hứa bán?
      • Thủ tục kết hôn người Công giáo? Thủ tục hôn nhân Công giáo?
      • Hạn ngạch thuế quan là gì? Quy định về hạn ngạch thuế quan?
      • Tiêu chuẩn xét danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở, toàn quốc
      • Bố mẹ tặng cho, sang tên sổ đỏ cho con có lấy lại được không?
      Thiên Dược 3 Bổ
      Thiên Dược 3 Bổ
      BÀI VIẾT MỚI NHẤT
      • Dịch vụ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu quốc tế uy tín trọn gói
      • Dịch vụ đăng ký thương hiệu, bảo hộ logo thương hiệu
      • Dịch vụ đăng ký nhãn hiệu, bảo hộ nhãn hiệu độc quyền
      • Luật sư bào chữa các tội liên quan đến hoạt động mại dâm
      • Luật sư bào chữa tội che giấu, không tố giác tội phạm
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội chống người thi hành công vụ
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội buôn lậu, mua bán hàng giả
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa trong các vụ án cho vay nặng lãi
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội gây rối trật tự nơi công cộng
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội trốn thuế, mua bán hóa đơn
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội dâm ô, hiếp dâm, cưỡng dâm
      • Bản đồ, các xã phường thuộc huyện Tân Hiệp (Kiên Giang)
      LIÊN KẾT NỘI BỘ
      • Tư vấn pháp luật
      • Tư vấn luật tại TPHCM
      • Tư vấn luật tại Hà Nội
      • Tư vấn luật tại Đà Nẵng
      • Tư vấn pháp luật qua Email
      • Tư vấn pháp luật qua Zalo
      • Tư vấn luật qua Facebook
      • Tư vấn luật ly hôn
      • Tư vấn luật giao thông
      • Tư vấn luật hành chính
      • Tư vấn pháp luật hình sự
      • Tư vấn luật nghĩa vụ quân sự
      • Tư vấn pháp luật thuế
      • Tư vấn pháp luật đấu thầu
      • Tư vấn luật hôn nhân gia đình
      • Tư vấn pháp luật lao động
      • Tư vấn pháp luật dân sự
      • Tư vấn pháp luật đất đai
      • Tư vấn luật doanh nghiệp
      • Tư vấn pháp luật thừa kế
      • Tư vấn pháp luật xây dựng
      • Tư vấn luật bảo hiểm y tế
      • Tư vấn pháp luật đầu tư
      • Tư vấn luật bảo hiểm xã hội
      • Tư vấn luật sở hữu trí tuệ
      LIÊN KẾT NỘI BỘ
      • Tư vấn pháp luật
      • Tư vấn luật tại TPHCM
      • Tư vấn luật tại Hà Nội
      • Tư vấn luật tại Đà Nẵng
      • Tư vấn pháp luật qua Email
      • Tư vấn pháp luật qua Zalo
      • Tư vấn luật qua Facebook
      • Tư vấn luật ly hôn
      • Tư vấn luật giao thông
      • Tư vấn luật hành chính
      • Tư vấn pháp luật hình sự
      • Tư vấn luật nghĩa vụ quân sự
      • Tư vấn pháp luật thuế
      • Tư vấn pháp luật đấu thầu
      • Tư vấn luật hôn nhân gia đình
      • Tư vấn pháp luật lao động
      • Tư vấn pháp luật dân sự
      • Tư vấn pháp luật đất đai
      • Tư vấn luật doanh nghiệp
      • Tư vấn pháp luật thừa kế
      • Tư vấn pháp luật xây dựng
      • Tư vấn luật bảo hiểm y tế
      • Tư vấn pháp luật đầu tư
      • Tư vấn luật bảo hiểm xã hội
      • Tư vấn luật sở hữu trí tuệ
      Dịch vụ luật sư uy tín toàn quốc

      CÙNG CHỦ ĐỀ
      ảnh chủ đề

      Đồng thuận nghịch là gì? Cơ chế giải quyết tranh chấp WTO

      Hiện nay, tranh chấp xuyên quốc gia xuất hiện ngày càng khó giải quyết. Do đó, các quốc gia cần có cơ chế giải quyết tranh chấp và về vấn đề đồng thuận đặc biệt là đồng thuận nghịch giữa các quốc gia. Vậy, đồng thuận nghịch là gì? Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO?

      ảnh chủ đề

      WTO là gì? Chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Tổ chức mậu dịch quốc tế WTO

      Tổ chức Thương mại Thế giới là tổ chức quốc tế đề ra và giám sát những qui tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế giới, với nỗ lực chính nhằm mở rộng hoạt động thương mại toàn cầu. Cùng tìm hiểu WTO là gì? Chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Tổ chức mậu dịch quốc tế WTO.

      ảnh chủ đề

      Các cam kết và lộ trình thực hiện cam kết WTO của Việt Nam

      Giới thiệu chung về WTO? Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết mở cửa nền kinh tế như thế nào? Lộ trình thực hiện các cam kết ra sao? Các cam kết của Việt Nam trong WTO và lộ trình thực hiện các cam kết?

      ảnh chủ đề

      Biểu cam kết thương mại dịch vụ WTO của Việt Nam mới nhất

      Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Một trong những bước ngoặt là việc chính thức trở thành thành viên của WTO. Khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam đã cam kết và nghiêm túc thực hiện các cam kết của mình trong tất cả các lĩnh vực.

      ảnh chủ đề

      Giải quyết tranh chấp về lĩnh vực chống phá giá của WTO

      Biện pháp chống bán phá giá thường được quy định là đánh thuế quan bổ sung lên sản phẩm bị coi là bán phá giá nhằm đẩy giá của sản phẩm đó ngang bằng với “giá trị bình thường” hoặc nhằm chấm dứt thiệt hại mà ngành sản xuất của nước nhập khẩu phải chịu. Cùng bài viết dưới đây tìm hiểu nhé.

      ảnh chủ đề

      Ưu và nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp WTO

      Cơ chế giải quyết tranh chấp WTO là một cơ chế đa phương được thiết lập để giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên WTO. Vậy Ưu và nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp WTO là gì?

      ảnh chủ đề

      Chính trị thương mại tại WTO có phải là chính trị “cấp thấp”?

      Sự gia tăng rộng rãi việc luân chuyển hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác trong những năm sau Thế chiến thứ hai vừa là nguyên nhân vừa là biểu hiện của công cuộc toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Công cuộc gia tăng thương mại lần này làm cho sự gia tăng thương mại xảy ra một thế kỷ trước đó trở nên hết sức nhỏ bé; đồng thời biểu hiện một kỷ nguyên mới trong đó sản xuất và thương mại quyện chặt vào nhau hết sức phức tạp.

      ảnh chủ đề

      Đại diện tại WTO: Quy trình lập pháp, Quy trình tư pháp

      Bình thường các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ tham gia vào quy trình làm luật của WTO chủ yếu thông qua các nỗ lực tác động tới lập trường thương thuyết ban đầu của quốc gia (và của EU).

      ảnh chủ đề

      Quy trình thể chế trong nước về đại diện quyền lợi và làm trung gian

      Xem xét những quy trình mang tính thể chế đối nội cho quyền đại diện và sự trung hòa các quyền lợi của những nhà hoạt động phi nhà nước mới, chú ý những thay đổi gần đây nhằm nâng cao tính hợp pháp và tính bền vững chính trị của việc hoạch định chính sách thương mại trong nước.

      ảnh chủ đề

      “Sự thiếu đại diện” cho các lợi ích của các nhân tố phi Nhà nước mới

      Một số nhà hoạt động và nhà bình luận phi nhà nước mới nhiều lần ca thán rộng rãi “sự khiếm khuyết về dân chủ” ở WTO, tập trung ở sự thiếu tính minh bạch đối với bên ngoài (nghĩa là, tính kín đáo của WTO) và những cơ hội ít ỏi dành cho sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ vào công cuộc hoạch định chính sách thương mại và dàn xếp tranh chấp (Wallach 2000; Atik 2001; Raustiala 2000; Charnovitz 2002).

      Xem thêm

      Tags:

      GATT 1947

      WTO


      CÙNG CHỦ ĐỀ
      ảnh chủ đề

      Đồng thuận nghịch là gì? Cơ chế giải quyết tranh chấp WTO

      Hiện nay, tranh chấp xuyên quốc gia xuất hiện ngày càng khó giải quyết. Do đó, các quốc gia cần có cơ chế giải quyết tranh chấp và về vấn đề đồng thuận đặc biệt là đồng thuận nghịch giữa các quốc gia. Vậy, đồng thuận nghịch là gì? Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO?

      ảnh chủ đề

      WTO là gì? Chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Tổ chức mậu dịch quốc tế WTO

      Tổ chức Thương mại Thế giới là tổ chức quốc tế đề ra và giám sát những qui tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế giới, với nỗ lực chính nhằm mở rộng hoạt động thương mại toàn cầu. Cùng tìm hiểu WTO là gì? Chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Tổ chức mậu dịch quốc tế WTO.

      ảnh chủ đề

      Các cam kết và lộ trình thực hiện cam kết WTO của Việt Nam

      Giới thiệu chung về WTO? Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết mở cửa nền kinh tế như thế nào? Lộ trình thực hiện các cam kết ra sao? Các cam kết của Việt Nam trong WTO và lộ trình thực hiện các cam kết?

      ảnh chủ đề

      Biểu cam kết thương mại dịch vụ WTO của Việt Nam mới nhất

      Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Một trong những bước ngoặt là việc chính thức trở thành thành viên của WTO. Khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam đã cam kết và nghiêm túc thực hiện các cam kết của mình trong tất cả các lĩnh vực.

      ảnh chủ đề

      Giải quyết tranh chấp về lĩnh vực chống phá giá của WTO

      Biện pháp chống bán phá giá thường được quy định là đánh thuế quan bổ sung lên sản phẩm bị coi là bán phá giá nhằm đẩy giá của sản phẩm đó ngang bằng với “giá trị bình thường” hoặc nhằm chấm dứt thiệt hại mà ngành sản xuất của nước nhập khẩu phải chịu. Cùng bài viết dưới đây tìm hiểu nhé.

      ảnh chủ đề

      Ưu và nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp WTO

      Cơ chế giải quyết tranh chấp WTO là một cơ chế đa phương được thiết lập để giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên WTO. Vậy Ưu và nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp WTO là gì?

      ảnh chủ đề

      Chính trị thương mại tại WTO có phải là chính trị “cấp thấp”?

      Sự gia tăng rộng rãi việc luân chuyển hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác trong những năm sau Thế chiến thứ hai vừa là nguyên nhân vừa là biểu hiện của công cuộc toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Công cuộc gia tăng thương mại lần này làm cho sự gia tăng thương mại xảy ra một thế kỷ trước đó trở nên hết sức nhỏ bé; đồng thời biểu hiện một kỷ nguyên mới trong đó sản xuất và thương mại quyện chặt vào nhau hết sức phức tạp.

      ảnh chủ đề

      Đại diện tại WTO: Quy trình lập pháp, Quy trình tư pháp

      Bình thường các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ tham gia vào quy trình làm luật của WTO chủ yếu thông qua các nỗ lực tác động tới lập trường thương thuyết ban đầu của quốc gia (và của EU).

      ảnh chủ đề

      Quy trình thể chế trong nước về đại diện quyền lợi và làm trung gian

      Xem xét những quy trình mang tính thể chế đối nội cho quyền đại diện và sự trung hòa các quyền lợi của những nhà hoạt động phi nhà nước mới, chú ý những thay đổi gần đây nhằm nâng cao tính hợp pháp và tính bền vững chính trị của việc hoạch định chính sách thương mại trong nước.

      ảnh chủ đề

      “Sự thiếu đại diện” cho các lợi ích của các nhân tố phi Nhà nước mới

      Một số nhà hoạt động và nhà bình luận phi nhà nước mới nhiều lần ca thán rộng rãi “sự khiếm khuyết về dân chủ” ở WTO, tập trung ở sự thiếu tính minh bạch đối với bên ngoài (nghĩa là, tính kín đáo của WTO) và những cơ hội ít ỏi dành cho sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ vào công cuộc hoạch định chính sách thương mại và dàn xếp tranh chấp (Wallach 2000; Atik 2001; Raustiala 2000; Charnovitz 2002).

      Xem thêm

      Tìm kiếm

      Duong Gia Logo

      Hỗ trợ 24/7: 1900.6568

      ĐẶT CÂU HỎI TRỰC TUYẾN

      ĐẶT LỊCH HẸN LUẬT SƯ

      VĂN PHÒNG HÀ NỘI:

      Địa chỉ: 89 Tô Vĩnh Diện, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, Việt Nam

       Điện thoại: 1900.6568

       Email: [email protected]

      VĂN PHÒNG MIỀN TRUNG:

      Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hoà Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

       Điện thoại: 1900.6568

       Email: [email protected]

      VĂN PHÒNG MIỀN NAM:

      Địa chỉ: 227 Nguyễn Thái Bình, phường 4, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

       Điện thoại: 1900.6568

        Email: [email protected]

      Bản quyền thuộc về Luật Dương Gia | Nghiêm cấm tái bản khi chưa được sự đồng ý bằng văn bản!

      Chính sách quyền riêng tư của Luật Dương Gia

      Gọi luật sưGọi luật sưYêu cầu dịch vụYêu cầu dịch vụ
      • Gọi ngay
      • Chỉ đường

        • HÀ NỘI
        • ĐÀ NẴNG
        • TP.HCM
      • Đặt câu hỏi
      • Trang chủ