Quyền nhận con riêng của vợ chồng. Có được nhận con riêng khi không có sự cho phép của vợ hoặc chồng không? Quy định về quyền nhận con.
Quyền nhận con riêng của vợ chồng. Có được nhận con riêng khi không có sự cho phép của vợ hoặc chồng không? Quy định về quyền nhận con.
Theo Khoản 2 Điều 91 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Quyền nhận con có quy định:
Cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết.
Trong trường hợp người đang có vợ, chồng mà nhận con thì việc nhận con không cần phải có sự đồng ý của người kia.
Do đó, người chồng hoặc người vợ có quyền nhận con ngoài giá thú mà không cần phải có sự đồng ý của người vợ hoặc người chồng.
Theo Điều 32 Nghị định 158/2005/NĐ-CP quy định về Điều kiện đăng ký việc nhận cha, mẹ, con quy định:
Việc nhận cha, mẹ, con theo quy định tại Mục này được thực hiện, nếu bên nhận, bên được nhận là cha, mẹ, con còn sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, mẹ, con và việc nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không có tranh chấp.
Người con đã thành niên hoặc người giám hộ của người con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự cũng được làm thủ tục nhận cha, mẹ theo quy định tại Mục này, trong trường hợp cha, mẹ đã chết; nếu việc nhận cha, mẹ là tự nguyện và không có tranh chấp.
Thủ tục đăng ký việc nhận cha, mẹ, con được quy định tại Điều 34 Nghị định 158/2005/NĐ-CP như sau:
1. Người nhận cha, mẹ, con phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định). Trong trường hợp cha hoặc mẹ nhận con chưa thành niên, thì phải có sự đồng ý của người hiện đang là mẹ hoặc cha, trừ trường hợp người đó đã chết, mất tích, mất năng lực hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Kèm theo Tờ khai phải xuất trình các giấy tờ sau đây:
a) Giấy khai sinh (bản chính hoặc bản sao) của người con;
b) Các giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con (nếu có).
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng sự thật và không có tranh chấp, thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký việc nhận cha, mẹ, con.
Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
Khi đăng ký việc nhận cha, mẹ, con, các bên cha, mẹ, con phải có mặt, trừ trường hợp người được nhận là cha hoặc mẹ đã chết. Cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký việc nhận cha, mẹ, con và Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Bản sao Quyết định được cấp theo yêu cầu của các bên.
Như vậy, nếu có đủ điều kiện để đăng ký nhận cha, con theo các quy định vừa trích dẫn ở trên, cha mẹ có thể làm hồ sơ nộp lên UBND cấp xã nơi cha mẹ hoặc con đang cư trú để thực hiện thủ tục. Việc mẹ cháu bé đã mất sẽ không ảnh hưởng đến việc nhận con của người cha.