Quy định của pháp luật trong việc xét xử vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về tài sản? Quy định của pháp luật trong việc thi hành án các vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về tài sản?
Mục lục bài viết
- 1 1. Quy định về xét xử vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về tài sản:
- 1.1 1.1. Về thẩm quyền của Tòa án nhân dân:
- 1.2 1.2. Về người tham gia tố tụng:
- 1.3 1.3. Về các biện pháp khẩn cấp tạm thời:
- 1.4 1.4. Về án phí, lệ phí của Tòa án:
- 1.5 1.5. Về thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử:
- 1.6 1.6. Về thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn:
- 2 2. Quy định về thi hành án các vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về tài sản:
1. Quy định về xét xử vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về tài sản:
1.1. Về thẩm quyền của Tòa án nhân dân :
Quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án so với Điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự cũ. Trong đó, bổ sung quan hệ tranh chấp Chia tài sản sau khi ly hôn, Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật; đồng thời điều luật cũng xác định rõ khi có quy định của pháp luật khác xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc cơ quan khác thì Tòa án không thụ lý, giải quyết. Quy định tại Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án so với Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự cũ. Trong đó, bổ sung yêu cầu về Công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định từ Điều 92 đến Điều 102 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án; yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định tại Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu xác định cha mẹ cho con hoặc con cho cha mẹ theo quy định từ Điều 89 đến Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngoài ra, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 còn quy định điều luật về việc xét xử vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn với thành phần người tiến hành tố tụng chỉ có Thẩm phán, Kiểm sát viên và Thư ký Tòa án.
1.2. Về người tham gia tố tụng:
Có nhiều thay đổi liên quan đến chế định này trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các nội dung được thay đổi xoay quanh những yêu cầu về giải thích nội hàm, phạm vi để xác định người tham gia tố tụng, quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng và trình tự, thủ tục xác lập mối quan hệ tố tụng giữa người tham gia tố tụng với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự theo nghĩa rộng. Đối với vụ việc Hôn nhân và gia đình, ở phạm vi quy định này, tại Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình thì họ là người đại diện. Ngoài ra, cũng cần lưu ý quy định về chỉ định người đại diện trong tố tụng dân sự tại khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, theo đó, trong các vụ án hôn nhân và gia đình, khi tiến hành tố tụng, nếu có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự ... mà không có người đại diện hoặc người đại diện của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 87 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng.
1.3. Về các biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Khi giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình, ngoài các vấn đề được lưu ý chung nhất trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc vụ án dân sự theo nghĩa rộng, chúng ta cần chú ý một biện pháp khẩn cấp tạm thời mới được bổ sung có liên quan trực tiếp đến vụ việc hôn nhân và gia đình là biện pháp Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình quy định tại khoản 15 Điều 114 và Điều 129 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
1.4. Về án phí, lệ phí của Tòa án:
Liên quan đến việc giải quyết, xét xử vụ án hôn nhân và gia đình, các quy định về án phí tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015 không có nhiều thay đổi so với Bộ luật tố tụng dân sự cũ và việc điều chỉnh vấn đề án phí đã được quy định cụ thể tại Nghị quyết 326/2016/NQ–UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có bổ sung 02 nội dung mới về nghĩa vụ nộp tiền lệ phí Tòa án và chịu lệ phí Tòa án đối với yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, được quy định tại khoản 2 Điều 146 và khoản 2 Điều 149 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Đồng thời, bên cạnh việc giải quyết vụ án hôn nhân có liên quan đến ủy thác tư pháp nước ngoài cần phải quan tâm kỹ các quy định tại Điều 153 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về nghĩa vụ chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài; xem xét, thẩm định, định giá tài sản trong vụ việc hôn nhân và gia đình
1.5. Về thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử:
Bên cạnh những điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử vụ án dân sự theo nghĩa rộng, các quy định ở phần này liên quan đến vụ án hôn nhân và gia đình có những điểm mới cần chú ý như sau: các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về nguyên tắc và thủ tục hòa giải có một số điểm mới quan trọng. Trong đó, quy định về nguyên tắc tiến hành hòa giải tại Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 bổ sung trường hợp không phải hòa giải đối với vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn; có nghĩa rằng, trường hợp Tòa án quyết định giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình theo thủ tục rút gọn thì không cần phải tiến hành phiên hòa giải theo thủ tục thông thường của vụ án dân sự theo nghĩa rộng. Khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 bổ sung nội dung liên quan đến việc thu thập chứng cứ, thông tin và việc công khai chứng cứ đối với vụ án hôn nhân và gia đình. Cụ thể quy định này xác định đối với vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án.Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con sau ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ 7 tuổi trở lên, trường hợp cần thiết có thể mời đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em chứng kiến, tham gia ý kiến. Việc lấy ý kiến của con chưa thành niên và các thủ tục tố tụng khác đối với người chưa thành niên phải đảm bảo thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người chưa thành niên, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, giữ bí mật cá nhân của người chưa thành niên”. Về thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, đối với vụ án hôn nhân và gia đình, khoản 2 Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 bổ sung nội dung “... đối với vụ án về hôn nhân và gia đình, Thẩm phán yêu cầu đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia phiên họp; nếu họ vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp”.
1.6. Về thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn:
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định mới 02 điều luật liên quan đến chế định về thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn tại Điều 396 và Điều 397. Trên thực tiễn, việc thụ lý và giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn trước khi áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự 2015 được Tòa án giải quyết trên cơ sở quy định phần chung về thủ tục giải quyết việc dân sự của Bộ luật tố tụng dân sự cũ. Tháo gỡ các vướng mắc qua thực tế thụ lý, giải quyết loại yêu cầu này, Điều 396 và
Điều 397 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục thụ lý đơn và mở phiên hòa giải. Khác với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự cũ là sau khi thụ lý yêu cầu, Tòa án mở phiên họp để xem xét yêu cầu của đương sự với thành phần phiên họp có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát, Điều 396 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 xác định Tòa án tiến hành hòa giải do Thẩm phán chủ trì và xử lý kết quả hòa giải theo các trường hợp: Đương sự đoàn tụ khi hòa giải thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của họ; đương sự thuận tình ly hôn, thỏa thuận đúng pháp luật và không trái đạo đức về vấn đề con chung, tài sản chung thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự; trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được một hoặc cả hai vấn đề con chung, tài sản chung thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự và thụ lý vụ án mà không cần lập thủ tục thông báo thụ lý vụ án, phân công Thẩm phán giải quyết vụ án.
2. Quy định về thi hành án các vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về tài sản:
Theo quy định pháp luật, sau khi có bản án dân sự về giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình có hiệu lực pháp luật, nếu bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thì cơ quan có thẩm quyền thi hành bản án dân sự trên có hiệu lực pháp luật là cơ quan Thi hành án dân sự. Theo Điều 30, Luật Thi hành án dân sự năm 2018, trong thời hạn 05 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Đối với quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thi hành hoặc đã thi hành một phần thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành. về thẩm quyền thi hành án dân sự, theo quy định tại khoản 1, Điều 35, Luật Thi hành án dân sự năm 2018 thì cơ quan thi hành án cấp huyện có thẩm quyền thi hành đối với bản án, quyết định Giám đốc thẩm của Toà án cấp tỉnh đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện nơi cơ quan thi hành dân sự cấp huyện có trụ sở. Trong trường hợp nếu thấy cần thiết, bản án, quyết định Giám đốc thẩm nêu trên có thể chuyển giao cho cơ quan thi hành dân sự cấp tỉnh. Hiện nay cơ quan thi hành án cấp huyện là Chi cục Thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Cơ quan thi hành án cấp tỉnh là Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Về việc ra quyết định thi hành án, theo quy định tại khoản 1, Điều 36, Luật Thi hành án dân sự năm 2018, thì trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Toà án, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải chủ động ra quyết định đối với phần bản án, quyết định sau đây:
– Hình phạt tiền, truy thu thiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí; – Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;
– Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản cho đương sự;
– Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước;
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Toà án chuyển giao hoặc do đương sự giao trực tiếp, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành. Ngoài những trường hợp theo khoản 1, Điều 36 nêu trên, Thủ trưởng cơ quan thi hành dân sự chỉ ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu cầu thi hành án. Đương sự (bao gồm người được thi hành án và người phải thi hành án) có thể tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác yêu cầu thi hành thông qua các hình thức nộp đơn trực tiếp, gửi đơn qua bưu điện hoặc trực tiếp trình bày bằng lời nói tại cơ quan thi hành án dân sự. Việc yêu cầu thi hành án phải kèm theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.