Khái quát về thỏa thuận quốc tế? Quy định về thực hiện và hiệu lực của thỏa thuận quốc tế?
Khi đất nước nở cử thông thương để phát triển kinh tế thì sẽ phải thiết lập các thỏa thuận và hiệp định đối với các quốc gia khác trên thế giới để có thể thực hiện các hoạt động kinh thế hoặc để gìn giữ hòa bình đối với mỗi quốc gia. Việt Nam là một trong các quốc gia tham gia vào rất nhiều các hiệp định và các thỏa thuận quốc tế liên quan đến nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau. Đối với một hiệp định, hiệp ước, thỏa thuận quốc tế,… thì sẽ đề có các quy định về vấn đề thực hiện và hiệu lực khác nhau và được quy định với nội dung phù hợp với nội dung của thỏa thuận trước đó. Tuy nhiên trong nội dung bài viết dưới đây tác giả sẽ chỉ gửi tới quý bạn đọc nội dung về ván đề quy định về thực hiện và hiệu lực của thỏa thuận quốc tế.
Luật sư
Cơ sở pháp lý: Luật Thỏa thuận quốc tế 2020
1. Khái quát về thỏa thuận quốc tế
Thỏa thuận quốc tế là những hiểu biết hoặc cam kết chính thức giữa hai hoặc nhiều quốc gia. Thỏa thuận giữa hai quốc gia được gọi là “song phương”, trong khi thỏa thuận giữa một số quốc gia là “đa phương.” Các quốc gia bị ràng buộc bởi một hiệp định quốc tế thường được gọi là “Các quốc gia thành viên”.
Theo luật quốc tế, điều ước là bất kỳ thỏa thuận ràng buộc pháp lý nào giữa các quốc gia (quốc gia). Một hiệp ước có thể được gọi là Công ước, Nghị định thư, Hiệp ước, Hiệp định, v.v.; nó là nội dung của hiệp định, không phải tên của nó, khiến nó trở thành một hiệp ước. Do đó, Nghị định thư Geneva và Công ước về Vũ khí Sinh học đều là những hiệp ước mặc dù cả hai đều không có từ “hiệp ước” trong tên gọi của nó. Theo luật của Hoa Kỳ, hiệp ước cụ thể là một thỏa thuận ràng buộc pháp lý giữa các quốc gia yêu cầu phê chuẩn và “lời khuyên và sự đồng ý” của Thượng viện. Tất cả các thỏa thuận khác (theo nghĩa quốc tế) được gọi là Thỏa thuận hành pháp, nhưng vẫn có giá trị pháp lý ràng buộc đối với Hoa Kỳ theo luật quốc tế.
Một hiệp ước được đàm phán bởi một nhóm các quốc gia, thông qua một tổ chức được thành lập cho mục đích cụ thể đó hoặc thông qua một cơ quan hiện có như Hội đồng Giải trừ Quân bị Liên hợp quốc (LHQ). Quá trình đàm phán có thể kéo dài vài năm, tùy thuộc vào chủ đề của hiệp ước và số lượng quốc gia tham gia. Sau khi đàm phán kết thúc, hiệp ước được ký kết bởi đại diện của các chính phủ có liên quan. Các điều khoản có thể yêu cầu hiệp ước phải được phê chuẩn cũng như được ký kết trước khi nó trở nên ràng buộc về mặt pháp lý. Chính phủ phê chuẩn hiệp ước bằng cách gửi văn kiện phê chuẩn tại một địa điểm được chỉ định trong hiệp ước; văn kiện phê chuẩn là một tài liệu có chứa một xác nhận chính thức rằng chính phủ đồng ý với các điều khoản của hiệp ước. Quy trình phê chuẩn khác nhau tùy theo luật pháp và Hiến pháp của mỗi quốc gia. Tại Hoa Kỳ, Tổng thống chỉ có thể phê chuẩn hiệp ước sau khi nhận được “lời khuyên và sự đồng ý” của 2/3 Thượng viện.
Trừ khi một hiệp ước có các điều khoản cho các thỏa thuận hoặc hành động tiếp theo, chỉ văn bản hiệp ước mới có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý. Nói chung, một sửa đổi đối với một hiệp ước chỉ ràng buộc đối với các quốc gia đã phê chuẩn sửa đổi và các thỏa thuận đạt được tại các hội nghị đánh giá, hội nghị thượng đỉnh hoặc cuộc họp của các quốc gia thành viên là về mặt chính trị nhưng không ràng buộc về mặt pháp lý. Một ví dụ về một hiệp ước có các điều khoản cho các thỏa thuận ràng buộc hơn nữa là Hiến chương Liên hợp quốc. Bằng việc ký kết và phê chuẩn Hiến chương, các quốc gia nhất trí bị ràng buộc về mặt pháp lý bởi các nghị quyết do các cơ quan của Liên hợp quốc như Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an thông qua. Do đó, các nghị quyết của Liên hợp quốc có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các Quốc gia thành viên Liên hợp quốc và không cần chữ ký hoặc phê chuẩn.
2. Quy định về thực hiện và hiệu lực của thỏa thuận quốc tế
2.1. Quy định về thực hiện thỏa thuận quốc tế
Thỏa thuận quốc tế được biết đến là công cụ mà các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế, chẳng hạn như một số tổ chức quốc tế, điều chỉnh các vấn đề mà họ quan tâm. Các thỏa thuận có nhiều hình thức và phong cách khác nhau, nhưng tất cả đều được điều chỉnh bởi luật điều ước, là một phần của luật tập quán quốc tế.
Một điều ước, công cụ điển hình của quan hệ quốc tế, được Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước là một “thỏa thuận được ký kết giữa các Quốc gia dưới dạng văn bản và được điều chỉnh bởi luật pháp quốc tế, cho dù được thể hiện trong một văn kiện duy nhất hay hai hoặc nhiều liên quan dụng cụ và bất kỳ chỉ định cụ thể nào của nó. Điều ước hợp đồng là những hiệp ước mà các bên đồng ý trao đổi các phần lãnh thổ hoặc giải quyết tranh chấp hoặc khiếu nại – nghĩa là họ giải quyết một loại hình kinh doanh cụ thể. Các hiệp ước xây dựng luật, đã phát triển rất nhiều về số lượng và ý nghĩa kể từ Thế chiến thứ hai, là công cụ trong đó các bên xây dựng các nguyên tắc hoặc quy tắc chi tiết cho hành vi của họ trong tương lai.
Thực hiện thỏa thuận quốc tế được quy định tại Chương V Luật Thỏa thuận quốc tế bao gồm 02 Điều (từ Điều 42 và Điều 43). Trong Chương này quy định về Trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan nhà nước cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức, cơ quan cấp tỉnh của tổ chức trong việc thực hiện thỏa thuận quốc tế; trách nhiệm của cơ quan, đơn vị tham mưu về công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế của cơ quan nhà nước ở trung ương và cơ quan nhà nước cấp tỉnh trong việc thực hiện thỏa thuận quốc tế.
Thỏa thuận quốc tế được biết đến như một thỏa thuận chính thức bằng văn bản rõ ràng mà các quốc gia sử dụng để ràng buộc về mặt pháp lý. Nó cũng là kết quả khách quan của một dịp lễ thừa nhận các bên và mối quan hệ xác định của họ. Không có điều kiện tiên quyết về chứng nhận học thuật hoặc kiến thức ngữ cảnh đa chuyên môn cần thiết để xuất bản một hiệp ước. Tuy nhiên, Một thỏa thuận quốc tế thường bắt đầu bằng phần mở đầu mô tả “Các bên ký kết cấp cao” và mục tiêu chung của họ trong việc thực thi hiệp ước, cũng như tóm tắt bất kỳ sự kiện cơ bản nào (chẳng hạn như hậu quả của chiến tranh trong trường hợp hiệp ước hòa bình).
Như vậy có thể thấy thực hiện thỏa thuận quốc tế được biết đến và được quy định trong Luật Thỏa thuận quốc tế năm 2020 của Việt Nam thì trong thỏa thuận quốc tế thì Việt Nam sẽ thực hiện các trách nhiệm của mình khi tham gia vào thỏa ước quốc tế này. Trong đó thì có trách nhiệm tổ chức thực hiện thỏa thuận quốc tế và trách nhiệm tham mức trong các công tác đối ngoại thực hiện thỏa thuận quốc tế đối với các quốc gia nước ngoài khác của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam
2.2. Quy định về hiệu lực của thỏa thuận quốc tế
Trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành thì để một văn bản pháp luật hay một thỏa ước quốc tế mà được áp dụng rộng rãi thì văn bản hay thỏa ước đó phải được tuyên bố là có hiệu lực theo như quy định của pháp luật mỗi quốc gia. Cụ thể, theo như quy định tại Điều 32 Luật Thỏa thuận quốc tế thì một Thỏa thuận quốc tế được có hiệu lực theo như quy định này của pháp luật Việt Nam được biết đến đó là:
“1. Thỏa thuận quốc tế có hiệu lực theo quy định của thỏa thuận quốc tế đó.
2. Trong trường hợp thỏa thuận quốc tế không quy định về hiệu lực thì thỏa thuận quốc tế đó có hiệu lực theo sự thống nhất bằng văn bản giữa bên ký kết Việt Nam và bên ký kết nước ngoài”.
Từ quy định vừa được nêu ra thì có thể thấy rằng đối với hiệu lực của thỏa thuận quốc tế thì cũng giống như các thỏa thuận khác thì thời điểm có hiệu lực được xác định là theo quy định của thỏa thuận quốc tế đó. Bên cạnh đó thì nếu như trong thỏa thuận quốc tế không có quy định về thời điểm có hiệu lực của thỏa thận quốc tế này thì thời gian được tính kể từ ngày văn bản giữa bên ký kết Việt Nam và bên ký kết nước ngoài được ký kết dưới sự thống nhất của các bên theo như quy định của các quốc gia hiện hành và đồng thời tuân theo các quy định trong thỏa thuận quốc tế hiện hành.
Trên đây là bài phân tích mới nhất của Luật Dương Gia về khái quát về thỏa thuận quốc tế? Quy định về thực hiện và hiệu lực của thỏa thuận quốc tế theo quy định mới nhất năm 2021. Nếu còn bất cứ thắc mắc nào liên quan đến trường hợp này hoặc các vấn đề pháp luật về thỏa thuận quốc tế khác, vui lòng liên hệ: 1900.6568 để được tư vấn – hỗ trợ!