Quyền thành lập doanh nghiệp? Chủ thể có quyền thành lập, và quản lý doanh nghiệp? Hạn chế quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp? Quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần góp vốn vào công ty?
Thành lập, góp vốn, quản lý doanh nghiệp là một trong những hoạt động được tự do thực hiện của các công dân. Tuy nhiên, quyền hạn này cũng được pháp luật quy định có những hạn chế nhất định, chỉ những chủ thể thỏa mãn điều kiện thì mới có quyền này.
Tổng đài Luật sư
1. Quyền thành lập doanh nghiệp
Quyền tự do thành lập doanh nghiệp là quyền của cá nhân hay pháp nhân trong việc tạo lập tư cách pháp lý thông qua các thủ tục thành lập, đăng ký doanh nghiệp. Quyền tự do thành lập doanh nghiệp là quyền quan trọng của nhà đầu tư, nhà đầu tư có quyền tự chủ hành động theo ý chí của mình trong việc thành lập và đăng ký doanh nghiệp phù hợp với những quy định của pháp luật.
Nhà đầu tư khi có nhu cầu kinh doanh thường tiến hành thủ tục đầu tiên đó là thành lập doanh nghiệp. Thành lập doanh nghiệp là cơ sở để cá nhân, pháp nhân thành lập tổ chức được Nhà nước công nhận là chủ thể kinh doanh hợp pháp, là tiền đề để tiến hành các hoạt động kinh doanh khác. Nhà đầu tư có quyền thành lập doanh nghiệp bao gồm cả cá nhân và pháp nhân. Khi tham gia thành lập doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ phải tiến hành góp vốn, chính là hoạt động đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty.
Tự do thành lập doanh nghiệp là quyền của nhà đầu tư, tuy nhiên để đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư trên thị trường, pháp luật đặt ra những điều kiện đối với cá nhân, tổ chức trong việc thành lập doanh nghiệp. Theo đó, không phải mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền tự do thành lập doanh nghiệp. Pháp luật hiện hành không quy định một cách trực tiếp cá nhân hay pháp nhân nào có quyền thành lập doanh nghiệp mà bằng phương pháp loại trừ, ngoài những tổ chức, cá nhân bị cấm thành lập doanh nghiệp hoặc những cá nhân, tổ chức pháp đáp ứng những điều kiện nhất định khi muốn thành lập doanh nghiệp thì các cá nhân, tổ chức khác có quyền tự do thành lập doanh nghiệp.
2. Chủ thể có quyền thành lập, và quản lý doanh nghiệp
Tại Khoản 1 Điều 17
“1. Tổ chức, cá nhân có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.”
Như vậy, theo quy định này thì đối tượng có quyền thành lập doanh nghiệp không phân biệt nhà đầu tư là cá nhân hay pháp nhân Việt Nam hay cá nhân, pháp nhân nước ngoài, chủ thể có quyền thành lập doanh nghiệp bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Và pháp luật cũng đã quy định không phải cá nhân, pháp nhân nào cũng được thành lập doanh nghiệp, có những cá nhân, pháp nhân bị hạn chế; có những cá nhân, pháp nhân bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp.
Ngoài ra, để các nhà đầu tư muốn thành lập doanh nghiệp phải có tài sản và phải thực hiện góp vốn theo quy định pháp luật.
3. Hạn chế quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp
Khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về các trường hợp tổ chức, cá nhân không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam bao gồm:
– Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình. Đối với quy định chủ thể là cơ quan Nhà nước tham gia thành lập doanh nghiệp, thì không được dùng tài sản Nhà nước tham gia thành lập nhằm thu lợi riêng nhằm đảm bảo công khai, minh bạch trong huy động, sử dụng ngân sách Nhà nước. Và quy định này cũng góp phần ngăn chặn các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi, hay có những hành vi tiêu cực, gian lận, tham nhũng,… gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
– Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và
– Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước. Nhóm đối tượng này cũng tương tự như các chủ thể là cán bộ, công chức, viên chức, nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ cũng như hạn chế việc lạm dụng chức vụ, quyền hạn.
– Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 88 của Luật Doanh nghiệp năm 2020, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác. Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ, đây là những người được Nhà nước giao nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý các doanh nghiệp nhà nước, những doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước và họ cũng chịu sự quản lý của Đảng và Nhà nước. Việc quy định các chủ thể này không được thành lập và quản lý doanh nghiệp nhằm đảm bảo những chủ thể này chuyên tâm vào việc thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo của quản lý mà Nhà nước giao cho, đồng tránh tình trạng tham ô, quan liêu, tham nhũng, thu lợi bất chính,…
– Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân. Đây là những chủ thể không có năng lực hành vi dân sự, mà năng lực hành vi dân sự là yếu tố mà các chủ thể cần phải có để thành lập doanh nghiệp nhằm đảm bảo trách nhiệm của các chủ thể thành lập và quản lý doanh nghiệp trước pháp luật cũng như trách nhiệm với các đối tác, khách hàng.
– “Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị
Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh;”
Việc cấm các chủ thể “đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự” không được thành lập và quản lý doanh nghiệp nhằm đảo bảo quyền lợi cho cá nhà đầu tư, các doanh nghiệp khác trên thị trường bởi đối với người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa xác định họ có bị phạm tội hay không, có phải chịu trách nhiệm trước pháp luật hay không, việc quy định như vậy nhằm tránh các trường hợp quyền và lợi ích của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp khác bị xâm hại khi tham gia sản xuất, kinh doanh với doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Còn cá cá nhân bị cấm hành nghề không được thành lập và quản lý doanh nghiệp nhằm đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội trong nền kinh tế thị trường. Đây là những chủ thể bị
– Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự.”
4. Quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần góp vốn vào công ty
Tương tự như việc quy định các chủ thể có quyền thành lập và quản lý công ty, Luật Doanh nghiệp năm 2020 cũng quy định về chủ thể không có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần góp vốn vào công ty, còn các chủ thể còn lại có quyền tự do góp vốn, mua cổ phần, mua phần góp vốn vào công ty. Theo đó, tại Khoản 3 Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định như sau:
“3. Tổ chức, cá nhân có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ trường hợp sau đây:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
b) Đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của Luật Cán bộ, công chức,
Pháp luật quy định như vậy cũng nhằm mục đích tương tự như việc quy định những chủ thể này không được thành lập, quản lý doanh nghiệp, đó chính là nhằm đảm bảo việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ mà họ được phân công và ngăn cản những trường hợp lạm dụng, tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn,… để gây hậu quả nghiêm trọng đến ngân sách nhà nước, hậu quả đến tình hình kinh tế của đất nước.