Quyền nhân thân là gì? Quy định về quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình?
Ở Việt Nam, gia đình luôn luôn được khẳng định là phần không thể thiếu của xã hội và còn được ví như tế bào của xã hội. Do vậy, dù ở bất cứ giai đoạn phát triển xã hội nào, bất cứ chế độ xã hội nào thì gia đình luôn được Nhà nước quan tâm, tác động bằng chính sách, điều chỉnh bằng pháp luật. Đặc biệt, pháp luật còn quy định rất cụ thể về quyền con người trong quy định của pháp
Dịch vụ Luật sư
Cơ sở pháp lý:
–
1. Quyền nhân thân là gì?
Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình được xác định dựa trên quy định tại Điều 39 Bộ luật dân sự nên được xác định là quyền của cá nhân trong hôn nhân và gia đình khi các cá nhân này xác lập quan hệ hôn nhân và gia đình với nhau dưới sự chấp thuận và ghi nhân của cơ quan có thẩm quyền nhà nước, theo đó, quyền nhân thân của cá nhân tại điều luật này được quy định là có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình.
Cũng theo như quy định tại Điều này thì con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình. Song khi cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình và luật khác có liên quan.
2. Quy định về quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình
Dựa vào Điều luật 39 của
Thứ nhất, cá nhân được pháp luật quy định là có quyền kết hôn là một trong những các quyền và được nhắc đến đầu tiên trong luật định. Theo đó thì, quyền kết hôn là quyền nhân thân của cá nhân được pháp luật thừa nhận, là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Căn cứ việc kết hôn phải dựa theo quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện về độ tuổi của nam là từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; nam nữ kết hôn phải có đầy đủ các năng lực hành vi dân sự; và điều kiện quan trong để nhà nước ghi nhận việc kết hôn này là hợp pháp khi việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình.
Bên cạnh đó, thì điều đặc biệt được quy định tại đây là việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Nếu việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý và quyền kết hôn của năm nữ đủ tuổi và đáp ứng được các điêu kiện nêu ở trên được xác định là không được nhà nước xác lập về quyền kết hôn này. Tuy nhiên, hiện nay nước ta thể hiện trong quy định của Luật hôn nhân và gia đình hiện hành, nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhưng cũng không cấm những trường hợp này yêu đương là không vi phạm các quy định của pháp luật.
Thứ hai, khi vợ chồng sống với nhau không hòa thuận và có yêu cầu ly hôn thì việc này được xác định theo quy định tại Điều 39 Bộ luật này là quyền lý hôn. Do đó, quyền ly hôn được nhân biết khi vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Bên cạnh đó thì theo như quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình thì quyền yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân của vợ, chồng, chỉ với tư cách là vợ, chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn.
Ngoài ra thì tại khoản 2 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định bổ sung thêm chủ thể khác ngoài vợ chồng có ó quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, thì pháp luật này có quy định thêm cha, mẹ, người thân thích khác (cũng) có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Quy định thêm các chủ thể khác ngoài vợ chồng có ó quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn xuất phát từ thực tiễn của đời sống xã hội và với mục đích nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của vợ, chồng là người mất năng lực hành vi dân sự và là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra.
Pháp luật Hôn nhân và gia đình luôn thừa nhận và bảo hộ quyền ly hôn của vợ và chồng dựa trên các điều luật quy định cụ thể. Tuy nhiên, quyền ly hôn của vợ, chồng cũng bị hạn chế theo quy định tại Luật này tại khoản 3 Điều 51, trong một số trường hợp cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi cho người vợ và người con sơ sinh: Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Thứ ba, cá nhân sau khi kết hôn và sống với nhau trên danh nghĩa vơ chồng và quan hệ này trong gia đình thì vợ chồng đều có quyền bình đẳng và quyền này của vợ chồng được ghi nhận tại Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan”.
Ngoài ra thì căn cứ dựa theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi nhân từ điều 17 đến Điều 50 đã quy định về nguyên tắc vợ chồng bình đẳng là một trong các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình. Bởi vì, nội dung của nguyên tắc này bảo đảm quyền bình đẳng của vợ chồng trong các quan hệ nhân thân và tài sản. Các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của vợ chồng luôn gắn liền và được thực hiện tương ứng giữa vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân, không thể chuyển giao cho người khác và không thể thực hiện bằng nghĩa vụ khác.
Trong đó, tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ và thực hiện các công việc trong gia đình. Bên cạnh đó thì vợ chông có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng.
Thứ tư, cá nhân được ghi nhận trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được quy định là có quyền xác định cha, mẹ, con đây được xác định là một trong những phần của quyền nhân thân. Quyền này được quy định cụ thể tại Điều 90 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về quyền nhận cha, mẹ khi đó con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết và con đã thành niên nhận cha, không cần phải có sự đồng ý của mẹ; nhận mẹ, không cần phải có sự đồng ý của cha; song song với quyền con có quyền nhận cha mẹ thì tại Điều 91 Luật này quy định về quyền nhận con khi đó cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết; Bên cạnh đó thì trong trường hợp người đang có vợ, chồng mà nhận con thì việc nhận con không cần phải có sự đồng ý của người kia.
Thứ năm, pháp luật đã quy định về quyền được nhận làm con nuôi và quyền nuôi con nuôi để đảm bảo quyền của người được nhật nuôi và người nhận nuôi, quyền này được quy định tại khoản 1 Điều 3
Trên đây là bài phân tích mới nhất của Luật Dương Gia về quy định về quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định mới nhất năm 2021. Nếu còn bất cứ thắc mắc nào liên quan đến trường hợp này hoặc các vấn đề pháp luật về quyên trong hôn nhân và gia đình khác, vui lòng liên hệ: 1900.6568 để được tư vấn – hỗ trợ!