Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo? Người độc thân có được nhờ mang thai hộ không?
Mang thai hộ là một trong những hình hức nhân đạo để giúp các cặp vợ chồng không có khả năng tự mình sinh con có thể thực hiện được thiên chức của mình là làm cha, làm mẹ. Để đảm bảo việc mang thai hộ ở đay là vì mục đích nhân đạo chứ không phải để một số người lợi dụng chuyện này để mang thai hộ vì mục đích thương mại. Cho nên các nhà làm luật đã dự liệu trước điều đó và đã đưa ra các quy định có liên quan đến nội dung mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Tuy nhiên để các chủ thể trong quá trình nhờ mang thai hộ được thực hiện tuân thủ theo các quy định của pháp luật hiện hành thì Luật Hôn nhân và gia đình đã đưa ra các quy định về quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ.
Việc quy định về quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ có nội dung bao gồm các quyền và nghĩa vụ gì? Việc quy định các quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ nhằm mục đích gì? Trong nội dung bài viết dưới đây, Luật Dương Gia sẽ gửi tới quý bạn đọc những nội dung liên quan đến quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ.
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
–
Mục lục bài viết
1. Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Trên cơ sở quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì không cấm các cặp vợ chồng không thể tự mình sinh con thì có thể con sinh bình thường như các cặp khác thì có thể thực hiện bằng kỹ thuật mang thai hộ theo quy định của Luật này. Do đó, con được sinh ra bằng kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được xác định là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.
Kể từ thời điểm con sinh ra nhờ mang thai hộ, vợ chồng người nhờ mang thai hộ sẽ phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ con. Ngược lại, giữa con được sinh ra sẽ phát sinh các quyền, nghĩa vụ đối với cha, mẹ và các thành viên khác trong gia đình theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Chính vì thế, quyền và nghĩa vụ củ bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được quy định tại Điều 98 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có nội dung bao gồm:
“1. Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế.
2. Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.
3. Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ.
4. Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của gia đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và luật khác có liên quan.
5. Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con”.
Từ quy định nêu trên, có thể thấy rằng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định các trường hợp cụ thể về việc giao và nhận con giữa các bên trong quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ mang thai hộ, trẻ em sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, pháp luật đã quy định:
Thứ nhất, theo như quy định tại Khoản 3 Điều 98 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nhằm mục đích để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người mang thai hộ và đứa con được nhân mang thai hộ thì trong những trường hợp con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ nếu trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết. Bởi vì con được nhờ mang thai hộ có huyết thống với bên nhờ mang thai hộ cho nên khi còn được sinh ra thì cũng sẽ trở thành thành viên của gia định là bên nhờ mang thai hộ đã chết và cũng sẽ được hưởng quyền thừa kế di sản của bố mẹ mình theo như quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và Bộ luật Dân sự hiện hành.
Thứ hai, cũng trên cơ sở quy định tại Điều 98 Khoản 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì có thể thấy rằng trong quá trình nhờ mang thai hộ và mang thai hộ sẽ có những phát sinh trái với mong muốn của các bên lúc ban đầu về vấn đề nhân con và giao con như đã thỏa thuận. Do đó, khi bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con. Và người lại thì bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con nhằm mục đích pháp luật cũng bảo vệ quyền nhận con của bên nhờ mang thai hộ. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một quy định mới thể hiện tính nhân văn của Nhà nước, mở ra niềm hy vọng cho những cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn khát khao làm cha mẹ.
Tuy nhiên, quá trình mang thai hộ theo như quy định của pháp luật thì việc này do các bên tự thỏa thuận cho nên vẫn còn những lỗ hổng trong các quy định của pháp luật hiện hành. Việc đấy thể hiện nhất là ở trong quá trình giao nhận con giữ bên nhờ mang thai hộ và bên nhận mang thai hộ có nhiều những khúc mắc cần điều chỉnh để có sự hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật theo hướng bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của trẻ em sinh ra bằng mang thai hộ, và các chủ thể khác, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế-xã hội trong giai đoạn hiện nay, góp phần xây dựng xã hội dân chủ, văn minh.
2. Người độc thân có được nhờ mang thai hộ không?
Trên cơ sở quy định tại Khoản 22 và khoản 23 Điều 3 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về việc cho phép việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau: ” Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.”
Bên cạnh đó thì pháp luật này cũng có đưa ra các quy định là người nhờ mang thai hộ phải có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về “việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý”.
Đồng thời thì người được nhờ mang thai hộ cũng phải thỏa mãn điều kiện mà Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 bao gồm: “Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý”.
Dựa trên quy định tại Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
“Điều 3. Nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.”
Từ quy định nêu ra ở trên thì việc mang thai hộ chỉ được đặt ra đối với trường hợp là cặp vợ chồng vô sinh, đối với trường hợp là phụ nữ độc thân chỉ có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa chứ không được quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo như quy định này. Thỏa thuận về việc mang thai hộ giữa bên nhờ mang thai hộ và bên nhận mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng bao gồm các nội dung cơ bản như: thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên nhận mang thai hộ; cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ của các bên; việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho bên nhận mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhận mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan; trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận.
Trên cơ sở những thỏa thuận và tự nguyện của hai bên, bên nhờ mang thai hộ chuẩn bị hồ sơ theo hướng dẫn tại Điều 14